Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2018

Thơ Boris Pasternak - Phần 2



4.ĐÊM TRẮNG

Anh dường như thấy lại một thời xa
Thấy ngôi nhà ở phía Pêtécbua
Người con gái của một bà điền chủ
Em đi họcem từ Cuốcscơ.

Em dễ thương có bao chàng ngưỡng mộ
Đêm trắng này chỉ hai đứa chúng mình
Ta ngồi trên bệ cửa sổ phòng em
Từ tầng nhà cao ngất nhìn xuống phố.

Ánh bình minh đã bắt đầu run rỡ
Chạm những ngọn đèn như những bướm ga
Những gì anh khe khẽ kể em nghe
Giống như là khoảng xa mơ màng ngủ.

Anh và em sẽ cùng nhau giữ kín
Sự thủy chung đến e ngại rụt rè
Như Pêtécbua toàn cảnh giăng ra
Bên kia sông Nêva là bất tận.

Ở đằng xa kia trong khu rừng rậm
Giữa đêm trắng trong mùa xuân này em
Bầy họa mi cất tiếng ca văng vẳng
Tiếng hót kia vang khắp cả khu rừng.

Tiếng hót véo von của chim lan tỏa
Giọng của con chim nhỏ bé mong manh
Thức dậy niềm vui và cảnh lăng xăng
Trong sâu thẳm của khu rừng quyến rũ.

Ở những nơi bằng chân trần lữ thứ
Đêm men theo bờ giậu đến nơi nào
Để dấu vết câu chuyện trộm đi theo
Sát gót đêm từ trên khung cửa sổ.

Trong tiếng vọng câu chuyện vừa nghe được
Lan khắp vườn cây có những ván rào
Những cành táo và những cành anh đào
Nở hoa khoác bộ áo màu trắng nhạt.

Cây như những bóng ma màu trắng toát
Đổ ra đường giống như một đám đông
Y hệt làm dấu ly biệt với đêm
Cái đêm trắng chuyện nhiều chưa nói hết.

Белая ночь

Мне далекое время мерещится,
Дом на стороне петербургской.
Дочь степной небогатой помещицы,
Ты - на курсах, ты родом из Курска.

Ты - мила, у тебя есть поклонники.
Этой белою ночью мы оба,
Примостясь на твоем подоконнике,
Смотрим вниз с твоего небоскреба.

Фонари, точно бабочки газовые,
Утро тронуло первою дрожью.
То, что тихо тебе я рассказываю,
Так на спящие дали похоже!

Мы охвачены тою же самою
Оробелою верностью тайне,
Как раскинувшийся панорамою
Петербург за невою бескрайней.

Там вдали, по дремучим урочищам,
Этой ночью весеннею белой
Соловьи славословьем грохочущим
Оглашают лесные пределы.

Ошалелое щелканье катится.
Голос маленькой птички лядащей
Пробуждает восторг и сумятицу
В глубине очарованной чащи.

В те места босоногою странницей
Пробирается ночь вдоль забора,
И за ней с подоконника тянется
След подслушанного разговора.

В отголосках беседы услышанной
По садам, огороженным тесом,
Ветви яблоновые и вишенные
Одеваются цветом белесым.

И деревья, как призраки, белые
Высыпают толпой на дорогу,
Точно знаки прощальные делая
Белой ночи, видавшей так много.


5.ĐƯỜNG LẦY MÙA XUÂN*

Ánh lửa hoàng hôn vừa cháy hết
Một người đi xuyên cánh rừng hoang
Phóng ngựa trên con đường ngập nước
Về khu trang trại ở Ural.

Con ngựa cái lúc lắc lá lách
Nước trong vũng chảy từ mạch nguồn
Dội vào móng sắt kêu lốp bốp
Hòa theo tiếng ngựa bước trên đường.

Khi người đàn ông buông dây cương
Ngựa đi nhẹ nhàng từng bước một
Nghe tiếng lũ băng kêu ầm ầm
Và tiếng nước xoáy sôi ùng ục.

Như ai đấy cười, ai đấy khóc
Tiếng đá va vào đá vỡ tung
Sau đó rơi vào nước xoáy vòng
Cùng với những cây vừa bật gốc.

Còn trong đám cháy của hoàng hôn
Ở chốn xa xa khắp lá cành
Nghe giống như là chuông báo động
Tiếng chim họa mi hót râm ran.

Nơi có cây liễu bên bờ mương
Rủ tấm khăn tang kẻ góa chồng
Như họa mi xưa từng đạo tặc
Trên bảy cây sồi chim hót vang.

Tiếng hót nhiệt thành, ngân vang ấy
Nhắm vào tai họa, nhắm vào ai?
Tiếng hót vang lừng như súng vậy
Bắn vào ai trong cánh rừng dày?

Có vẻ chim hóa thành yêu tinh
Từ nơi tù khổ sai trốn chạy
Gặp người đi bộ và đi ngựa
Về phía đồn du kích địa phương.

Đất và trời, rừng và đồng ruộng
Bắt âm thanh hiếm để cho nhau
Rồi chia theo những phần đều đặn
Có điên cuồng, hạnh phúc, khổ đau.
________________
*Đường lầy (Распутица) – là một khái niệm thuần Nga dùng để chỉ thời kỳ đường sá lầy lội khó đi do thời tiết. Hằng năm có hai thời kỳ như vậy: đường lầy mùa thu (từ giữa tháng 10 đến cuối tháng 11) do trời mưa và đường lầy mùa xuân (từ giữa tháng 3 đến cuối tháng 4) do tuyết tan.

Весенняя распутица

Огни заката догорали.
Распутицей в бору глухом
В далекий хутор на Урале
Тащился человек верхом.

Болтала лошадь селезенкой,
И звону шлепавших подков
Дорогой вторила вдогонку
Вода в воронках родников.

Когда же опускал поводья
И шагом ехал верховой,
Прокатывало половодье
Вблизи весь гул и грохот свой.

Смеялся кто-то, плакал кто-то,
Крошились камни о кремни,
И падали в водовороты
С корнями вырванные пни.

А на пожарище заката,
В далекой прочерни ветвей,
Как гулкий колокол набата
Неистовствовал соловей.

Где ива вдовий свой повойник
Клонила, свесивши в овраг,
Как древний соловей-разбойник
Свистал он на семи дубах.

Какой беде, какой зазнобе
Предназначался этот пыл?
В кого ружейной крупной дробью
Он по чащобе запустил?

Казалось, вот он выйдет лешим
С привала беглых каторжан
Навстречу конным или пешим
Заставам здешних партизан.

Земля и небо, лес и поле
Ловили этот редкий звук,
Размеренные эти доли
Безумья, боли, счастья, мук.


Thơ Boris Pasternak - Phần 1

53 bài thơ Song Ngữ Việt Nga



Bác sĩ Zhivago. Phần 17: 25 bài thơ.

1.HAMLET

Tiếng ồn ngưng. Tôi bước ra sân khấu
Tôi đứng dựa lưng vào mép cánh gà
Và nghe ra trong tiếng vọng từ xa
Là những gì trong đời tôi đang xảy.

Trong bóng tối mờ nhập nhoạng của đêm
Cả nghìn ống nhòm vào tôi đang chĩa
Áp-ba, Cha ơi, nếu như có thể
Chiếc chén này xin hãy để xa con*.

Con yêu ý tưởng ngang trái của Ngài
Và con đã từng đồng ý nhận vai.
Nhưng bây giờ đời diễn trò kịch khác
Thì lần này cho con được phép thôi.

Nhưng kịch bản đã dàn dựng hết rồi
Và điểm cuối con đường không thay đổi
Tất cả theo Pharisêu** mình tôi còn lại
Sống hết đời – đâu chỉ cuộc dạo chơi.
_______________
*Tác giả sử dụng một tích trong Kinh Phúc Âm – lời của Chúa Giêsu: “Áp-ba, Cha ơi, nếu có thể được, xin cất chén này xa con” (Mác, 14: 36). Lời này Giêsu nói trong lúc cảm thấy có sự ngờ vực, thời điểm trước khi Ngài bị bắt.
**Pharisêu - ở những thời điểm khác nhau trong lịch sử Do Thái, họ là nhóm người quy tụ thành một đảng phái chính trị, một trường phái tư tưởng. Kinh Phúc Âm thường gọi họ là những kẻ giả nhân giả nghĩa. Tác giả dùng ở đây với nghĩa là những người xung quanh ông đều cam chịu sống theo những qui tắc đã được qui định sẵn.

Гамлет

Гул затих. Я вышел на подмостки.
Прислонясь к дверному косяку,
Я ловлю в далеком отголоске,
Что случится на моем веку.

На меня наставлен сумрак ночи
Тысячью биноклей на оси.
Если только можно, Aвва Oтче,
Чашу эту мимо пронеси.

Я люблю Твой замысел упрямый
И играть согласен эту роль.
Но сейчас идет другая драма,
И на этот раз меня уволь.

Но продуман распорядок действий,
И неотвратим конец пути.
Я один, все тонет в фарисействе.
Жизнь прожить — не поле перейти.


2.THÁNG BA

Mặt trời cố hết sức mình sưởi ấm
Và bờ khe như sôi sụcngẩn ngơ
Đ nàng xuân với công việc say sưa
Giống như cô gái chăn bò khỏe mạnh.

Tuyết héo hondường như đang đ bệnh
Thiếu máu vật vờ trong những cành xanh
Nhưng cuộc sống trong chuồng bò bốc lên
Những chiếc cào hừng hực đầy sức sống.

Ôi những đêm, những ngày và những đêm
Giữa ban trưa giọt nước rơi tí tách
Những cột nước đóng băng giờ suy nhược
Những suối con không ngủ chuyện huyên thiên.

Cả chuồng bò, chuồng ngựa đều mở toang
Chim bồ câu trên tuyết mổ thóc ăn
Kẻ có lỗi và kẻ cho sức sống –
Là bãi phân tỏa không khí trong lành.

Март

Солнце греет до седьмого пота,
И бушует, одурев, овраг.
Как у дюжей скотницы работа,
Дело у весны кипит в руках.

Чахнет снег и болен малокровьем
B веточках бессильно синих жил.
Но дымится жизнь в хлеву коровьем,
И здоровьем пышут зубья вил.

Эти ночи, эти дни и ночи!
Дробь капелей к середине дня,
Кровельных сосулек худосочье,
Ручейков бессонных болтовня!

Настежь все конюшня и коровник.
Голуби в снегу клюют овес,
И всего живитель и виновник,
Пахнет свежим воздухом навоз.



3.TRONG TUẦN THÁNH

Sương đêm bao phủ khắp nơi
Hãy còn quá sớm trên đời
Nên những vì sao vô khối
Và mỗi ngôi sao như ngày
Giá như mặt đất có thể
Thì đã ngủ cho ngày lễ
Phục Sinh - Thánh Vịnh khắp nơi.

Sương đêm bao trùm mặt đất
Trời còn sớm trên thế gian
Mặt đất nằm như vĩnh hằng
Từ ngã tư đường đến góc
Và đến bình minhấm áp
Thì hãy còn cả nghìn năm.

Khi đất hãy còn trần truồng
Thì đêm có cũng như không
Còn cây chuông thì lúc lắc
Hòa theo lời hát tiếng đàn.

Và từ Thứ năm màu xanh
Cho đến Thứ bảy màu trắng
Nước từ bờ biển khoan lên
Và chỗ nước xoáy cuồn cuộn.

Và rừng hãy còn trần truồng
Và trong Tuần Thánh linh thiêng
Như một đám đông cầu nguyện
Là những ngọn thông vươn lên.

Còn trong thành phố, giống như
Trong cuộc mít tinh bên lề
Cây cối trần truồng nhìn ngó
Vào hàng rào của nhà thờ.

Trong ánh mắt chúng kinh hoàng.
Chúng hiểu ra điều lo lắng.
Bỏ hết rào giậu khu vườn
Mặt đất lung lay chuyển động
Chúng đem Chúa Trời đi chôn.

Thấy ánh sáng ở cửa Thánh
Khăn đen và cả dãy nến
Và những gương mặt lệ tràn
Ra gặp đám rước, bỗng nhiên
Có cả một tấm khăn liệm
Hai cây bạch dương bên cổng
Cần đứng tránh sang một bên.

Và đám rước đi quanh sân
Đi theo mép của con đường
Mang vào hiên từ ngoài phố
Mùa xuân, câu chuyện mùa xuân
Không khí và mùi vị của
Bánh Thánh và sự nhiệt thành.

Và tháng ba đem rắc tuyết
Trên cổng đám đông què quặt
Có vẻ như có một người
Bước ra, mở hòm giao ước
Đem phát hết cho mọi người.

Tiếng hát kéo dài đến sáng
Thổn thức nức nở thỏa lòng
Rồi từ bên trong im lặng
Trong hoang vắng dưới ánh đèn
Sứ đồ hay là Thánh Vịnh.

Nhưng nửa đêm bỗng lặng im
Thân xác nghe tiếng mùa xuân
Và chỉ khi đó hiểu được
Cần đấu tranh với cái chết
Bằng nỗ lực của Phục Sinh.

На Страстной

Еще кругом ночная мгла.
Еще так рано в мире,
Что звездам в небе нет числа,
И каждая, как день, светла,
И если бы земля могла,
Она бы Пасху проспала
Под чтение Псалтыри.

Еще кругом ночная мгла.
Такая рань на свете,
Что площадь вечностью легла
От перекрестка до угла,
И до рассвета и тепла
Еще тысячелетье.

Еще земля голым-гола,
И ей ночами не в чем
Раскачивать колокола
И вторить с воли певчим.

И со Страстного четверга
Вплоть до Страстной субботы
Вода буравит берега
И вьет водовороты.

И лес раздет и непокрыт,
И на Страстях Христовых,
Как строй молящихся, стоит
Толпой стволов сосновых.

А в городе, на небольшом
Пространстве, как на сходке,
Деревья смотрят нагишом
В церковные решетки.

И взгляд их ужасом объят.
Понятна их тревога.
Сады выходят из оград,
Колеблется земли уклад:
Они хоронят Бога.

И видят свет у царских врат,
И черный плат, и свечек ряд,
Заплаканные лица -
И вдруг навстречу крестный ход
Выходит с плащаницей,
И две березы у ворот
Должны посторониться.

И шествие обходит двор
По краю тротуара,
И вносит с улицы в притвор
Весну, весенний разговор
И воздух с привкусом просфор
И вешнего угара.

И март разбрасывает снег
На паперти толпе калек,
Как будто вышел человек,
И вынес, и открыл ковчег,
И все до нитки роздал.

И пенье длится до зари,
И, нарыдавшись вдосталь,
Доходят тише изнутри
На пустыри под фонари
Псалтырь или Апостол.

Но в полночь смолкнут тварь и плоть,
Заслышав слух весенний,
Что только-только распогодь,
Смерть можно будет побороть
Усильем Воскресенья.


Thơ Boris Pasternak - Tiểu sử


Boris Leonidovich Pasternak (tiếng Nga: Бори́с Леони́дович Пастерна́к, 29 tháng 2 năm 1890 – 30 tháng 5 năm 1960) – nhà văn, nhà thơ Nga Xô Viết đoạt giải Nobel Văn học năm 1958 “vì những thành tựu lớn lao mà ông đạt được trong nền thơ trữ tình hiện đại, cũng như vì công lao tiếp nối các truyền thống tiểu thuyết sử thi vĩ đại của Nga”, trở thành người Nga thứ hai đoạt giải này (sau Ivan Bunin)Do những áp lực chính trị, Pasternak buộc phải từ chối nhận giải (30 năm sau con trai ông mới nhận thay ông tấm bằng cao quý đó). Boris Pasternak được coi là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XX.

Tiểu sử:
Boris Pasternak sinh ở Moskva, trong một gia đình nghệ sĩ tài năng gốc Do Thái, theo học hội họa, âm nhạc triết học và lịch sử rồi quyết định theo đuổi sự nghiệp văn chương. Năm 1914 in tập thơ đầu tiên Người anh em sinh đôi trong mây đen. Những sáng tác của nhà thơ ngày càng được công chúng đánh giá cao, đến những năm 1930 ông được coi như một nhà thơ Xô Viết hàng đầu.

Năm 1922, ông cho ra đời tác phẩm văn xuôi đầu tiênThời thơ ấu của Lyuvers và kết hôn với nữ họa sĩ Evgenia Lurie. Năm 1931 Evgenia Lurie đi sang Đức chữa bệnh lao phổi thì cuộc hôn nhân này tan vỡ. Năm 1923 Pasternak in tập thơNhững chủ đề và biến tấu được đánh giá là một trong những đỉnh cao của thơ ông. Năm 1931, tự truyện Chứng chỉ hộ thânra đời, bộc lộ rõ quan điểm của Pasternak với nghệ thuật, thiên nhiên và cuộc sống. Là người biết nhiều ngoại ngữ, những năm không có việc làm ông đã làm nghề dịch để kiếm sống - ông đã dịch thơ cổ điển Anh, Pháp, Đức, Gruzia, đặc biệt các bản dịch bi kịch Shakespeare được coi là hay nhất trong tiếng Nga.

Từ năm 1945 đến 1955, Pasternak sáng tác cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của ông, Bác sĩ Zhivago, nhưng không được in ở Liên Xô, đến năm 1957 tác phẩm này được xuất bản ở Italia. Cuối năm sau, cuốn sách được dịch ra 18 thứ tiếng.Bác sĩ Zhivago mô tả cuộc sống của giới trí thức Nga trong bối cảnh của một thời kỳ bi đát từ đầu thế kỷ đến trước Thế chiến II. Cuốn tiểu thuyết thấm đượm chất thơ trữ tình, bao gồm cả 25 bài thơ của nhân vật chính –Yuri Zhivago. Trong quá trình viết tác phẩm này, Pasternak đã rất nhiều lần thay đổi tên gọi của nó. Cuốn tiểu thuyết đã có thể được gọi là “Những chàng trai và những cô gái”, “Ngọn nến cháy”, “Kinh nghiệm của Faust Nga”, “Cái chết không tồn tại”.
Tác phẩm này đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm về sự tồn tại của con người – những bí ẩn của cuộc sống và cái chết, những câu hỏi về lịch sử, Kitô giáo – và đã gặp phải những phản ứng tiêu cực của nhà chức trách cũng như môi trường văn học chính thống, bị từ chối cho xuất bản do quan điểm mơ hồ của tác giả liên quan đến Cách mạng Tháng Mười và những thay đổi tiếp theo trong đời sống của đất nước. Bác sĩ Zhivago là một trong những cuốn tiểu thuyết Nga hiện đại được đọc nhiều nhất ở nước ngoài.

Về đời tư, Boris Pasternak kết hôn ba lần, có hai con trai, bốn đứa cháu và mười đứa chắt. Ông mất vì bệnh ung thư phổi ở ngoại ô Moskva.

Tác phẩm: 
Những bài thơ đầu tay, in trong quyển “Thơ trữ tình”(Лирика, 1913).
Người anh em sinh đôi trong mây đen (Близнец в тучах, 1914), thơ.
Phía trên rào cản (Поверх барьеров, 1917), thơ.
Cuộc sống là chị tôi (Сестра моя жизнь, 1922), thơ.
Thời thơ ấu của Lyuvers (Детство Люверс (, 1922), truyện.
Những chủ đề và biến tấu (Темы и вариации, 1923), thơ.
Bệnh cao sang (Высокая болезнь, 1924), trường ca.
Trung úy Smidt (Лейтенант Шмидт, 1926), trường ca.
Đường trên không (Воздушные пути, 1924), truyện.
Chứng chỉ hộ thân (Охранная грамота, 1931), tự truyện.
Năm chín trăm lẻ năm (Девятьсот пятый год, 1927), trường ca.
Truyện vừa (Повесть, 1929), truyện.
Tái sinh (Второе рождение, 1932), tập thơ.
Trên những chuyến tàu sớm (На ранних поездках, 1943), thơ.
Khoảng bao la trái đất (Земной простор, 1945), thơ.
Bác sĩ Zhivago (Доктор Живаго, 1957), tiểu thuyết.
Con người và cảnh ngộ (Люди и положения, 1957), tự truyện.
Bút kí tiểu sử (Биографический очерк, 1959).

Xem thêm:



VIDEO