Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2018

Thơ Boris Pasternak - Phần 15



22.NHỮNG NGÀY TỆ HẠI

Trong tuần lễ cuối cùng
Khi Người đi vào thành Giêrusalem
Dân Do Thái ra tung hô chào đón
Chạy theo sau, mang theo cả lá cành.

Nhưng tháng ngày mỗi lúc nghiệt ngã hơn
Những con tim tình yêu không chạm đến
Những hàng lông mày chau và khinh khỉnh
Và lời bạt là đây, là chỗ cuối cùng.

Và bầu trời như đè nặng xuống sân
Giống như chì, tất cả trong sức nặng
Bọn Pharisêu cố tìm ra bằng chứng
Trước mặt Người như lũ cáo lăng xăng.

Các thế lực đen tối của ngôi đền
Giao Người cho bọn lưu manh phán quyết
Và chúng nguyền rủa với bầu nhiệt huyết
Như trước đây từng ca tụng, thề nguyền.

Một đám đông ở khu đất bên cạnh
Đưa ánh mắt từ trong cổng nhìn ra
Cái kết cục họ trông ngóng đợi chờ
Vẻ sốt ruột, cứ hết lùi lại tiến.

Và tiếng rì rầm lan sang bên cạnh
Và lời đồn khắp bốn phía tỏa ra
Lần sang Ai Cập và thời ấu thơ
Chỉ được nhớ lại như là giấc mộng.

Và nhớ lại cái tảng đá trang nghiêm
Ở chốn hoang vu, và nơi dốc đá
Nơi mà Người bị Sa tăng quyến rũ
Với cái quyền bá chủ cả thế gian.

Và bữa tiệc vu quy ở Cana
Đám thực khách ngạc nhiên vì phép lạ
Trong màn mịt mờ trên biển cả
Người đi thuyền như đi trên đất kia.

Đám dân nghèo tụ tập trong lán trại
Họ cầm theo ngọn nến xuống tầng hầm
Nơi ngọn nến phụt tắt vì kinh hoàng
Khi Người vừa hồi sinh và đứng dậy…


Дурные дни

Когда на последней неделе
Входил Он в Иерусалим,
Осанны навстречу гремели,
Бежали с ветвями за Ним.

А дни все грозней и суровей,
Любовью не тронуть сердец.
Презрительно сдвинуты брови.
И вот послесловье, конец.

Свинцовою тяжестью всею
Легли на дворы небеса.
Искали улик фарисеи,
Юля перед Ним, как лиса.

И темными силами храма
Он отдан подонкам на суд,
И с пылкостью тою же самой,
Как славили прежде, клянут.

Толпа на соседнем участке
Заглядывала из ворот,
Толклись в ожиданье развязки
И тыкались взад и вперед.

И полз шепоток по соседству
И слухи со многих сторон.
И бегство в Египет и детство
Уже вспоминались как сон.

Припомнился скат величавый
В пустыне, и та крутизна,
С которой всемирной державой
Его соблазнял сатана.

И брачное пиршество в Кане,
И чуду дивящийся стол.
И море, которым в тумане
Он к лодке, как по суху, шел.

И сборище бедных в лачуге,
И спуск со свечою в подвал,
Где вдруг она гасла в испуге,
Когда воскрешенный вставал…
  

Thơ Boris Pasternak - Phần 14


22.NHỮNG NGÀY TỆ HẠI

Trong tuần lễ cuối cùng
Khi Người đi vào thành Giêrusalem
Dân Do Thái ra tung hô chào đón
Chạy theo sau, mang theo cả lá cành.

Nhưng tháng ngày mỗi lúc nghiệt ngã hơn
Những con tim tình yêu không chạm đến
Những hàng lông mày chau và khinh khỉnh
Và lời bạt là đây, là chỗ cuối cùng.

Và bầu trời như đè nặng xuống sân
Giống như chì, tất cả trong sức nặng
Bọn Pharisêu cố tìm ra bằng chứng
Trước mặt Người như lũ cáo lăng xăng.

Các thế lực đen tối của ngôi đền
Giao Người cho bọn lưu manh phán quyết
Và chúng nguyền rủa với bầu nhiệt huyết
Như trước đây từng ca tụng, thề nguyền.

Một đám đông ở khu đất bên cạnh
Đưa ánh mắt từ trong cổng nhìn ra
Cái kết cục họ trông ngóng đợi chờ
Vẻ sốt ruột, cứ hết lùi lại tiến.

Và tiếng rì rầm lan sang bên cạnh
Và lời đồn khắp bốn phía tỏa ra
Lần sang Ai Cập và thời ấu thơ
Chỉ được nhớ lại như là giấc mộng.

Và nhớ lại cái tảng đá trang nghiêm
Ở chốn hoang vu, và nơi dốc đá
Nơi mà Người bị Sa tăng quyến rũ
Với cái quyền bá chủ cả thế gian.

Và bữa tiệc vu quy ở Cana
Đám thực khách ngạc nhiên vì phép lạ
Trong màn mịt mờ trên biển cả
Người đi thuyền như đi trên đất kia.

Đám dân nghèo tụ tập trong lán trại
Họ cầm theo ngọn nến xuống tầng hầm
Nơi ngọn nến phụt tắt vì kinh hoàng
Khi Người vừa hồi sinh và đứng dậy…


Дурные дни

Когда на последней неделе
Входил Он в Иерусалим,
Осанны навстречу гремели,
Бежали с ветвями за Ним.

А дни все грозней и суровей,
Любовью не тронуть сердец.
Презрительно сдвинуты брови.
И вот послесловье, конец.

Свинцовою тяжестью всею
Легли на дворы небеса.
Искали улик фарисеи,
Юля перед Ним, как лиса.

И темными силами храма
Он отдан подонкам на суд,
И с пылкостью тою же самой,
Как славили прежде, клянут.

Толпа на соседнем участке
Заглядывала из ворот,
Толклись в ожиданье развязки
И тыкались взад и вперед.

И полз шепоток по соседству
И слухи со многих сторон.
И бегство в Египет и детство
Уже вспоминались как сон.

Припомнился скат величавый
В пустыне, и та крутизна,
С которой всемирной державой
Его соблазнял сатана.

И брачное пиршество в Кане,
И чуду дивящийся стол.
И море, которым в тумане
Он к лодке, как по суху, шел.

И сборище бедных в лачуге,
И спуск со свечою в подвал,
Где вдруг она гасла в испуге,
Когда воскрешенный вставал…
  

Thơ Boris Pasternak - Phần 13


21.ĐẤT

Mùa xuân ùa ra ôm lấy
Các biệt thự Mátxcơva
Bọ nhậy bay sau lưng tủ
Bò trên mũ của mùa hè
Người cất áo lông vào tủ.

Trên tầng lửng bằng gỗ
Người ta bày những chậu hoa
Cùng đinh hương và lan tử la
Và các gian phòng dễ thở
Mùi bụi từ gác xép bay ra.

Và đường phố thân tình
Với ô cửa mắt kèm nhèm
Cả hoàng hôn và đêm trắng
Không rời nhau ở bến sông.

Và có thể nghe ở hành lang
Những gì ở ngoài không gian
Biết tháng tư đang nói chuyện
Với giọt nước rất vô tình.
Nó biết hàng ngàn câu chuyện
Về đau khổ của người trần
Bình minh trên rào ló dạng
Kéo dài câu chuyện huyên thiên.

Lửa hòa trộn cùng với sự kinh hoàng
Thì cảm thấy khắp nơi đều ấm cúng
Và khắp nơi không khí không như mình
Và cũng vẫn là những cành liễu mỏng
Và cũng vẫn là những búp hoa trắng
Trên cửa sổ và trên ngã ba đường
Ngoài đường phố và cả trong công xưởng.

Thì tại sao khoảng xa khóc trong sương
Sao nấm mốc bốc lên mùi cay đắng?
Bởi thiên chức của tôi và sứ mệnh
Là làm cho những khoảng cách khỏi buồn
Để ở ngoài thành phố theo giới hạn
Mặt đất kia không buồn bã một mình.

Chính vì lẽ đó mà đầu xuân này
Tôi và bạn bè tổ chức gặp mặt
Và những tối vui là sự chia tay
Những buổi tiệc tùng là lời di chúc
Và để cái tia khổ đau bí mật
Sưởi ấm cho cơn lạnh của cuộc đời.


Земля

В московские особняки
Врывается весна нахрапом.
Выпархивает моль за шкапом
И ползает по летним шляпам,
И прячут шубы в сундуки.

По деревянным антресолям
Стоят цветочные горшки
С левкоем и желтофиолем,
И дышат комнаты привольем,
И пахнут пылью чердаки.

И улица запанибрата
С оконницей подслеповатой,
И белой ночи и закату
Не разминуться у реки.

И можно слышать в коридоре,
Что происходит на просторе,
О чем в случайном разговоре
С капелью говорит апрель.
Он знает тысячи историй
Про человеческое горе,
И по заборам стынут зори
И тянут эту канитель.

И та же смесь огя и жути
На воле и в жилом уюте,
И всюду воздух сам не свой.
И тех же верб сквозные прутья.
И тех же белых почек вздутья
И на окне, и на распутье,
На улице и в мастерской.

Зачем же плачет даль в тумане
И горько пахнет перегной?
На то ведь и мое призванье,
Чтоб не скучали расстоянья,
Чтобы за городскою гранью
Земле не тосковать одной.

Для этого весною ранней
Со мною сходятся друзья,
И наши вечера прощанья,
Пирушки наши завещанья,
Чтоб тайная струя страданья
Согрела холод бытия. 


Thơ Boris Pasternak - Phần 12


20.PHÉP LẠ

Người đi từ Bethany đến Giêrusalem
Mệt rã rời vì nỗi buồn đã biết
Bụi gai đã cháy khô trên đỉnh dốc
Khói không hề bay trên mái lều gần
Trời nóng bức và lau sậy đứng yên
Sự bất động im lìm trên Biển Chết.

Với nỗi đắng cay của biển cùng tranh chấp
Người bước đi cùng với những đám mây
Trên con đường bụi tới sân của ai
Đến thành phố cùng môn đ họp mặt.

Người đắm chìm trong ý nghĩ của mình
Trên cánh đồn bốc lên mùi cây ngải
Tất cả lặng imMình Người đứng giữa
Còn cánh đồng nằm tê liệt mê man.
Tất cả lẫn lộnkhí nóng và bãi hoang
Những con thằn lằnmạch nguồndòng suối.

Một cây vả nhô cao lên gần đấy
Cây không hề có quảchỉ lá cành
Người hỏi cây: “Mi có ích gì chăng?
Ta vui gì khi nhìn mi đứng vậy?

Ta khát, đói mà mi thì vô sinh
Gặp phải mi khác gì đá hoa cương.
Ôithật đáng tráchmi loài vô dụng
Mi cứ là mi cho đến ngày tàn”.

Cơn run của lời nguyền chạy theo cây
Như tia chớp truyền theo cột thu lôi
Cây vả liền bị đốt thành tro bụi.

Thời điểm này nếu có phút tự do
Ở lá, cành, ở gốc và thân cây
Hẳn luật tự nhiên kịp thời can thiệp.
Nhưng phép lạ là phép lạ, là Chúa Trời.
Khi ta rối bời, khi ta cuống quít
Thì lập tức phép lạ hiện ra ngay.


Чудо

Он шел из Вифании в Ерусалим,
Заранее грустью предчувствий томим.

Колючий кустарник на круче был выжжен,
Над хижиной ближней не двигался дым,
Был воздух горяч, и камыш неподвижен,
И Мертвого моря покой недвижим.

И в горечи, спорившей с горечью моря,
Он шел с небольшою толпой облаков
По пыльной дороге на чье-то подворье,
Шел в город на сборище учеников.

И так углубился он в мысли свои,
Что поле в уныньи запахло полынью.
Все стихло. Один он стоял посредине,
А местность лежала пластом в забытьи.
Все перемешалось: теплынь и пустыня,
И ящерицы, и ключи, и ручьи.

Смоковница высилась невдалеке,
Совсем без плодов, только ветки да листья.
И он ей сказал: «Для какой ты корысти?
Какая мне радость в твоем столбняке?

Я жажду и алчу, а ты — пустоцвет,
И встреча с тобой безотрадней гранита.
О, как ты обидна и недаровита!
Останься такой до скончания лет».

По дереву дрожь осужденья прошла,
Как молнии искра по громоотводу.
Смоковницу испепелило до тла.

Найдись в это время минута свободы
У листьев, ветвей, и корней, и ствола,
Успели б вмешаться законы природы.
Но чудо есть чудо, и чудо есть Бог.
Когда мы в смятеньи, тогда средь разброда
Оно настигает мгновенно, врасплох.