20.PHÉP LẠ
Người đi từ Bethany đến Giêrusalem
Mệt rã rời vì nỗi buồn đã biết
Bụi gai đã cháy khô trên đỉnh dốc
Khói không hề bay trên mái lều gần
Trời nóng bức và lau sậy đứng yên
Sự bất động im lìm trên Biển Chết.
Với nỗi đắng cay của biển cùng tranh chấp
Người bước đi cùng với những đám mây
Trên con đường bụi tới sân của ai
Đến thành phố cùng môn đồ họp mặt.
Người đắm chìm trong ý nghĩ của mình
Trên cánh đồn bốc lên mùi cây ngải
Tất cả lặng im. Mình Người đứng giữa
Còn cánh đồng nằm tê liệt mê man.
Tất cả lẫn lộn: khí nóng và bãi hoang
Những con thằn lằn, mạch nguồn, dòng suối.
Một cây vả nhô cao lên gần đấy
Cây không hề có quả, chỉ lá cành
Người hỏi cây: “Mi có ích gì chăng?
Ta vui gì khi nhìn mi đứng vậy?
Ta khát, đói mà mi thì vô sinh
Gặp phải mi khác gì đá hoa cương.
Ôi, thật đáng trách, mi loài vô dụng
Mi cứ là mi cho đến ngày tàn”.
Cơn run của
lời nguyền chạy theo cây
Như tia chớp
truyền theo cột thu lôi
Cây vả liền bị
đốt thành tro bụi.
Thời điểm này
nếu có phút tự do
Ở lá, cành, ở
gốc và thân cây
Hẳn luật tự
nhiên kịp thời can thiệp.
Nhưng phép lạ
là phép lạ, là Chúa Trời.
Khi ta rối
bời, khi ta cuống quít
Thì lập tức
phép lạ hiện ra ngay.
Чудо
Он шел из Вифании в Ерусалим,
Заранее грустью предчувствий томим.
Колючий кустарник на круче был выжжен,
Над хижиной ближней не двигался дым,
Был воздух горяч, и камыш неподвижен,
И Мертвого моря покой недвижим.
И в горечи, спорившей с горечью моря,
Он шел с небольшою толпой облаков
По пыльной дороге на чье-то подворье,
Шел в город на сборище учеников.
И так углубился он в мысли свои,
Что поле в уныньи запахло полынью.
Все стихло. Один он стоял посредине,
А местность лежала пластом в забытьи.
Все перемешалось: теплынь и пустыня,
И ящерицы, и ключи, и ручьи.
Смоковница высилась невдалеке,
Совсем без плодов, только ветки да листья.
И он ей сказал: «Для какой ты корысти?
Какая мне радость в твоем столбняке?
Я жажду и алчу, а ты — пустоцвет,
И встреча с тобой безотрадней гранита.
О, как ты обидна и недаровита!
Останься такой до скончания лет».
По дереву дрожь осужденья прошла,
Как молнии искра по громоотводу.
Смоковницу испепелило до тла.
Найдись в это время минута свободы
У листьев, ветвей, и корней, и ствола,
Успели б вмешаться законы природы.
Но чудо есть чудо, и чудо есть Бог.
Когда мы в смятеньи, тогда средь разброда
Оно настигает мгновенно, врасплох.
21.ĐẤT
Mùa xuân ùa ra ôm lấy
Các biệt thự Mátxcơva
Bọ nhậy bay sau lưng tủ
Bò trên mũ của mùa hè
Người cất áo lông vào tủ.
Trên tầng lửng bằng gỗ
Người ta bày những chậu hoa
Cùng đinh hương và lan tử la
Và các gian
phòng dễ thở
Mùi bụi từ gác
xép bay ra.
Và đường phố
thân tình
Với ô cửa mắt
kèm nhèm
Cả hoàng hôn
và đêm trắng
Không rời nhau
ở bến sông.
Và có thể nghe
ở hành lang
Những gì ở
ngoài không gian
Biết tháng tư
đang nói chuyện
Với giọt nước
rất vô tình.
Nó biết hàng
ngàn câu chuyện
Về đau khổ của
người trần
Bình minh trên
rào ló dạng
Kéo dài câu
chuyện huyên thiên.
Lửa hòa trộn
cùng với sự kinh hoàng
Thì cảm thấy
khắp nơi đều ấm cúng
Và khắp nơi
không khí không như mình
Và cũng vẫn là
những cành liễu mỏng
Và cũng vẫn là
những búp hoa trắng
Trên cửa sổ và
trên ngã ba đường
Ngoài đường
phố và cả trong công xưởng.
Thì tại sao
khoảng xa khóc trong sương
Sao nấm mốc
bốc lên mùi cay đắng?
Bởi thiên chức
của tôi và sứ mệnh
Là làm cho
những khoảng cách khỏi buồn
Để ở ngoài
thành phố theo giới hạn
Mặt đất kia
không buồn bã một mình.
Chính vì lẽ đó
mà đầu xuân này
Tôi và bạn bè
tổ chức gặp mặt
Và những tối
vui là sự chia tay
Những buổi
tiệc tùng là lời di chúc
Và để cái tia
khổ đau bí mật
Sưởi ấm cho
cơn lạnh của cuộc đời.
Земля
В московские особняки
Врывается весна нахрапом.
Выпархивает моль за шкапом
И ползает по летним шляпам,
И прячут шубы в сундуки.
По деревянным антресолям
Стоят цветочные горшки
С левкоем и желтофиолем,
И дышат комнаты привольем,
И пахнут пылью чердаки.
И улица запанибрата
С оконницей подслеповатой,
И белой ночи и закату
Не разминуться у реки.
И можно слышать в коридоре,
Что происходит на просторе,
О чем в случайном разговоре
С капелью говорит апрель.
Он знает тысячи историй
Про человеческое горе,
И по заборам стынут зори
И тянут эту канитель.
И та же смесь огя и жути
На воле и в жилом уюте,
И всюду воздух сам не свой.
И тех же верб сквозные прутья.
И тех же белых почек вздутья
И на окне, и на распутье,
На улице и в мастерской.
Зачем же плачет даль в тумане
И горько пахнет перегной?
На то ведь и мое призванье,
Чтоб не скучали расстоянья,
Чтобы за городскою гранью
Земле не тосковать одной.
Для этого весною ранней
Со мною сходятся друзья,
И наши вечера прощанья,
Пирушки наши завещанья,
Чтоб тайная струя страданья
Согрела холод бытия.
22.NHỮNG NGÀY TỆ HẠI
Trong tuần lễ cuối cùng
Khi Người đi vào thành Giêrusalem
Dân Do Thái ra
tung hô chào đón
Chạy theo sau,
mang theo cả lá cành.
Nhưng tháng
ngày mỗi lúc nghiệt ngã hơn
Những con tim
tình yêu không chạm đến
Những hàng
lông mày chau và khinh khỉnh
Và lời bạt là
đây, là chỗ cuối cùng.
Và bầu trời
như đè nặng xuống sân
Giống như chì,
tất cả trong sức nặng
Bọn Pharisêu
cố tìm ra bằng chứng
Trước mặt
Người như lũ cáo lăng xăng.
Các thế lực
đen tối của ngôi đền
Giao Người cho
bọn lưu manh phán quyết
Và chúng nguyền
rủa với bầu nhiệt huyết
Như trước đây
từng ca tụng, thề nguyền.
Một đám đông ở
khu đất bên cạnh
Đưa ánh mắt từ
trong cổng nhìn ra
Cái kết cục họ
trông ngóng đợi chờ
Vẻ sốt ruột,
cứ hết lùi lại tiến.
Và tiếng rì
rầm lan sang bên cạnh
Và lời đồn
khắp bốn phía tỏa ra
Lần sang Ai
Cập và thời ấu thơ
Chỉ được nhớ
lại như là giấc mộng.
Và nhớ lại cái
tảng đá trang nghiêm
Ở chốn hoang
vu, và nơi dốc đá
Nơi mà Người
bị Sa tăng quyến rũ
Với cái quyền
bá chủ cả thế gian.
Và bữa tiệc vu
quy ở Cana
Đám thực khách
ngạc nhiên vì phép lạ
Trong màn mịt
mờ trên biển cả
Người đi
thuyền như đi trên đất kia.
Đám dân nghèo
tụ tập trong lán trại
Họ cầm theo
ngọn nến xuống tầng hầm
Nơi ngọn nến
phụt tắt vì kinh hoàng
Khi Người vừa
hồi sinh và đứng dậy…
Дурные дни
Когда на последней неделе
Входил Он в Иерусалим,
Осанны навстречу гремели,
Бежали с ветвями за Ним.
А дни все грозней и суровей,
Любовью не тронуть сердец.
Презрительно сдвинуты брови.
И вот послесловье, конец.
Свинцовою тяжестью всею
Легли на дворы небеса.
Искали улик фарисеи,
Юля перед Ним, как лиса.
И темными силами храма
Он отдан подонкам на суд,
И с пылкостью тою же самой,
Как славили прежде, клянут.
Толпа на соседнем участке
Заглядывала из ворот,
Толклись в ожиданье развязки
И тыкались взад и вперед.
И полз шепоток по соседству
И слухи со многих сторон.
И бегство в Египет и детство
Уже вспоминались как сон.
Припомнился скат величавый
В пустыне, и та крутизна,
С которой всемирной державой
Его соблазнял сатана.
И брачное пиршество в Кане,
И чуду дивящийся стол.
И море, которым в тумане
Он к лодке, как по суху, шел.
И сборище бедных в лачуге,
И спуск со свечою в подвал,
Где вдруг она гасла в испуге,
Когда воскрешенный вставал…
23.MAĐƠLEN I
Đêm xuống, con quỉ của con đã ở đây
Con trả nợ cho
những gì trong quá khứ
Những ký ức
của một thời đồi trụy
Sẽ đến đây,
hút máu trái tim này
Ngày mà con là
nô lệ của bao người
Con đã từng là
một con điên ngu dại
Trú khắp đầu
đường xó chợ, ở mọi nơi.
Chỉ còn lại
mấy phút nữa mà thôi
Sẽ có sự lặng
yên như dưới mồ tĩnh lặng
Nhưng trước
khi chúng hò nhau kéo đến
Đến tận cùng
con đập phá cuộc đời
Cuộc đời con,
như chiếc bình ngọc trắng
Trước mặt
Người.
Ôi, dù bây giờ
nơi nào con đang ở
Thầy của con,
niềm Cứu rỗi của con
Giá mà, khi mà
đêm sẽ đến bên bàn
Thì vĩnh hằng
không chờ con, không đợi
Và giống như
một người du khách mới
Bị sa lưới
nghề do bởi con giăng.
Xin Người
giảng, thế nào là lỗi lầm
Và cái chết,
địa ngục, lửa lưu huỳnh
Khi mà con đây
trong mắt tất cả
Như chồi và
cây, với Người gắn bó
Trong nỗi buồn
không nói hết của con.
Hỡi Giêsu của
con, khi con ôm
Bàn chân Người
dựa vào gối của con
Thì có lẽ, con
học được cách ôm
Cây xà bốn
cạnh là cây thập ác
Và con ngất
lịm hướng về cái xác
Sẵn sàng liệm
xác của Người để chôn.
Магдалина
Чуть ночь, мой демон тут как тут,
За прошлое моя расплата.
Придут и сердце мне сосут
Воспоминания разврата,
Когда, раба мужских причуд,
Была я дурой бесноватой
И улицей был мой приют.
Осталось несколько минут,
И тишь наступит гробовая.
Но, раньше чем они пройдут,
Я жизнь свою, дойдя до края,
Как алавастровый сосуд,
Перед тобою разбиваю.
О, где бы я теперь была,
Учитель мой и мой спаситель,
Когда б ночами у стола
Меня бы вечность не ждала,
Как новый, в сети ремесла
Мной завлеченный посетитель.
Но объясни, что значит грех,
И смерть, и ад, и пламень серный,
Когда я на глазах у всех
С тобой, как с деревом побег,
Срослась в своей тоске безмерной.
Когда твои стопы, Исус,
Оперши о свои колени,
Я, может, обнимать учусь
Креста четырехгранный брус
И, чувств лишаясь, к телу рвусь,
Тебя готовя к погребенью.
24.MAĐƠLEN II
Trước ngày lễ mọi người đều dọn dẹp
Con tránh xa cảnh bận rộn lăng xăng
Và con tưới nước thơm từ trong bình
Vào đôi chân của Người vô cùng sạch.
Con lục lọi và không tìm thấy dép
Không thấy gì vì nước mắt đầy vơi
Trong mắt con như
có một màng che
Do những lọn
tóc xõa ra che lấp.
Đôi chân Người
con áp vào vạt áo
Nước mắt rơi
lên đó, Chúa của con
Con quấn chuỗi
ngọc đeo cổ vào chân
Và tóc xõa
trùm lên như áo phủ.
Con thấy rõ
tương lai từng chi tiết
Tựa hồ như
Người bắt chúng dừng chân
Và giống như
những thầy bói Xibin**
Con bây giờ có
khả năng đoán trước.
Ngày mai màn
che rơi xuống trong đền
Chúng con tụ
tập bên ngoài thành đám
Và đất ở dưới
bàn chân rung chuyển
Có thể là vì
thương hại cho con.
Đoàn áp giải
sẽ đổi thay hàng ngũ
Sẽ tản về các
phía bọn kỵ binh
Thập ác này sẽ
hướng lên trời xanh
Như lốc xoáy
trên đầu trong cơn bão.
Con phủ phục
xuống đất, bên thập ác
Chết lặng
người và mím miệng cắn môi
Đôi tay giang
rộng để ôm nhiều người
Là đôi tay của
Người trên thập ác.
Cho ai trên
đời ngần ấy bao dung
Ngần ấy đớn
đau và nguồn sức mạnh?
Có chăng trên
đời bấy nhiêu đời sống?
Bấy nhiêu
sông, núi, bấy nhiêu xóm làng?
Nhưng ba ngày
như thế sẽ qua nhanh
Chúng đẩy con
vào khoảng không rỗng tuếch
Và trong cái
khoảng cách này khủng khiếp
Con sẽ lớn lên
đến sự Phục sinh.
_______________
*Maria Mađơlen (Mai Đệ Liên) – theo kinh
Phúc Âm là môn đệ trung thành của Chúa Giêsu, người có mặt trong ngày Chúa bị
đóng đinh cũng như ngày chôn cất và là người đầu tiên nhìn thấy Chúa phục sinh.
Mađơlen là người từ một gái giang hồ trở thành một Nữ Thánh.
**Xibin (Sibyls) – những người phụ nữ có
tài tiên tri ở Hy Lạp thời cổ đại. Nổi tiếng nhất là Xibin ở Cumai, người đã
xem bói cho Aineas.
Магдалина
У людей пред праздником уборка.
В стороне от этой толчеи
Обмываю миром из ведерка
Я стопы пречистые твои.
Шарю и не нахожу сандалий.
Ничего не вижу из-за слез.
На глаза мне пеленой упали
Пряди распустившихся волос.
Ноги я твои в подол уперла,
Их слезами облила, Исус,
Ниткой бус их обмотала с горла,
В волосы зарыла, как в бурнус.
Будущее вижу так подробно,
Словно ты его остановил.
Я сейчас предсказывать способна
Вещим ясновиденьем сивилл.
Завтра упадет завеса в храме,
Мы в кружок собьемся в стороне,
И земля качнется под ногами,
Может быть, из жалости ко мне.
Перестроятся ряды конвоя,
И начнется всадников разъезд.
Словно в бурю смерч, над головою
Будет к небу рваться этот крест.
Брошусь на землю у ног распятья,
Обомру и закушу уста.
Слишком многим руки для объятья
Ты раскинешь по концам креста.
Для кого на свете столько шири,
Столько муки и такая мощь?
Есть ли столько душ и жизней в мире?
Столько поселений, рек и рощ?
Но пройдут такие трое суток
И столкнут в такую пустоту,
Что за этот страшный промежуток
Я до воскресенья дорасту.
25.VƯỜN GHẾTSÊMANI*
Ánh sáng của những ngôi sao hờ hững
Chiếu lên chỗ ngoặt của con đường
Núi cây dầu con đường chạy vòng quanh
Phía bên dưới
là Kidron thung lũng.
Một nửa đồng
cỏ dường như được cắt
Tiếp theo sau
đồng cỏ – dải ngân hà
Và những cây ô
liu đầy ánh bạc
Cố gắng theo
không khí bước về xa.
Ở phía cuối
khu vườn, một thuở đất
Người bỏ lại
môn đệ sau bức tường
Và nói với họ:
“Hồn ta bất an
Anh em ở lại
để mà canh thức”.
Người từ chối,
Người tránh sự đối đầu
Như là những
thứ đi vay ai đấy
Từ chối quyền
năng và sự nhiệm màu
Giống như
người trần thế, như ta vậy.
Khoảng đêm xa
bây giờ như mép cạnh
Của sự hủy
diệt và cõi hư vô
Hoàn vũ mênh
mông chẳng có một ai
Và chỉ khu
vườn là nơi để sống.
Mắt Người nhìn
vào những hố đen ngòm
Và trống rỗng,
chẳng có đầu có cuối
Để cho chiếc
chén chết này qua khỏi
Đẫm mồ hôi
Người cầu nguyện Cha mình.
Lời cầu làm
dịu vẻ mệt rã rời
Người bước ra
khỏi bờ rào. Trên đất
Môn đệ của
Người ngủ gà ngủ gật
Trên cỏ ven
đường họ ngủ khắp nơi.
Người thức họ:
“Chúa Trời xui anh em
Sống trong ngày
của ta mà la liệt
Thôi đủ rồi,
giờ của người đã hết
Người trao
thân vào tay bọn lỗi lầm”.
Người vừa nói
xong, chẳng biết từ đâu
Một đám đông
nô lệ mang gậy gộc
Cùng gươm
giáo, Giuđa đi phía trước
Với nụ hôn
phản bội ở trên môi.
Phêrơ lấy gươm
đánh bọn bất nhân
Chém đứt tai
một tên trong số nọ
Nhưng nghe
tiếng: “Hãy cho gươm vào vỏ
Ai cầm gươm
rồi sẽ chết vì gươm**.
Anh nghĩ Cha
Thầy không giúp Thầy chăng?
Người sẽ cho
mười hai đạo binh thần
Một sợi tóc
trên đầu không dám đụng
Và lũ kia chỉ
có biến mất tăm.
Nhưng quyển
sách đời giờ đã sang trang
Trang này quí
hơn những miền thánh địa
Và những gì
trong sách từng viết đó
Giờ phải trở
thành sự thực. Amen!
Anh thấy đấy,
dòng đời như châm ngôn
Và có thể đang
giữa đường bốc cháy
Vì sự vĩ đại
rất kinh hoàng ấy
Trong khổ đau
Thầy xuống mộ vui lòng.
Thầy xuống mộ,
ngày thứ ba đứng lên
Như những
chiếc bè bơi trên sông nhỏ
Như đoàn
thuyền đến trong ngày phán xử
Hàng trăm năm
bơi ra khỏi bóng đêm”.
______________
* Đây là khu vườn mà Giêsu đến cầu nguyện và bị
bắt tại đây do Giuđa phản bội (xem Phúc Âm Mathiơ, 26: 36-56; Mác, 14: 32-52.
Luca, 22: 39-49).
**Dòng này chúng tôi dịch đúng theo lời Giêsu trong Kinh Thánh hơn là theo
thơ Pasternak.
Гефсиманский сад
Мерцаньем звезд далеких безразлично
Был поворот дороги озарен.
Дорога шла вокруг горы Масличной,
Внизу под нею протекал Кедрон.
Лужайка обрывалась с половины.
За нею начинался Млечный путь.
Седые серебристые маслины
Пытались вдаль по воздуху шагнуть.
В конце был чей-то сад, надел земельный.
Учеников оставив за стеной,
Он им сказал: “Душа скорбит смертельно,
Побудьте здесь и бодрствуйте со мной”.
Он отказался без противоборства,
Как от вещей, полученных взаймы,
От всемогущества и чудотворства,
И был теперь, как смертные, как мы.
Ночная даль теперь казалась краем
Уничтоженья и небытия.
Простор вселенной был необитаем,
И только сад был местом для житья.
И, глядя в эти черные провалы,
Пустые, без начала и конца,
Чтоб эта чаша смерти миновала,
В поту кровавом Он молил Отца.
Смягчив молитвой смертную истому,
Он вышел за ограду. На земле
Ученики, осиленные дремой,
Валялись в придорожном ковыле.
Он разбудил их: “Вас Господь сподобил
Жить в дни мои, вы ж разлеглись, как пласт.
Час Сына Человеческого пробил.
Он в руки грешников себя предаст”.
И лишь сказал, неведомо откуда
Толпа рабов и скопище бродяг,
Огни, мечи и впереди — Иуда
С предательским лобзаньем на устах.
Петр дал мечом отпор головорезам
И ухо одному из них отсек.
Но слышит: “Спор нельзя решать железом,
Вложи свой меч на место, человек.
Неужто тьмы крылатых легионов
Отец не снарядил бы мне сюда?
И, волоска тогда на мне не тронув,
Враги рассеялись бы без следа.
Но книга жизни подошла к странице,
Которая дороже всех святынь.
Сейчас должно написанное сбыться,
Пускай же сбудется оно. Аминь.
Ты видишь, ход веков подобен притче
И может загореться на ходу.
Во имя страшного ее величья
Я в добровольных муках в гроб сойду.
Я в гроб сойду и в третий день восстану,
И, как сплавляют по реке плоты,
Ко мне на суд, как баржи каравана,
Столетья поплывут из темноты”.
Những bài thơ khác:
(Phần Bác sĩ Zhivago xếp theo trật tự của tác phẩm, phần sau xếp theo trình tự thời
gian sáng tác)
1.NGÀY HÔM NAY
TẤT CẢ MẶC BÀNH TÔ
Ngày hôm nay
tất cả mặc bành tô
Những mầm cây
khoác trên mình giọt nước
Nhưng tất cả
không một ai nhận ra
Rằng anh uống
say tiết trời vẩn đục.
Ánh bạc ngời
những chiếc lá mâm xôi
Mặt sau lá
hướng lên trời, ngửa mặt
Ngày hôm nay
em buồn như mặt trời
Còn mặt trời
như em – người phương bắc.
Ngày hôm nay
tất cả mặc bành tô
Nhưng với ta
không có gì bất lợi
Không có gì
thay nổi cho hai ta
Thứ nước uống
có màu hơi sẫm tối.
1913
Все наденут сегодня пальто
Все наденут сегодня пальто
И заденут за поросли капель,
Но из них не заметит никто,
Что опять я ненастьями запил.
Засребрятся малины листы,
Запрокинувшись кверху изнанкой,
Солнце грустно сегодня, как ты, -
Солнце нынче, как ты, северянка.
Все наденут сегодня пальто,
Но и мы проживем без убытка.
Нынче нам не заменит ничто
Затуманившегося напитка.
2.GIẤC MƠ
Anh mơ thấy em
trong kính hoàng hôn
Thấy bạn bè và em đang huyên náo
Trái tim anh
như đại bàng say máu
Từ trời cao sà
xuống giữa tay em.
Nhưng thời
gian già đi và nghễnh ngãng
Để ánh hoàng
hôn từ phía sau vườn
Cho khung cửa,
đem ánh bạc nhuốm lên
Và cho kính,
lệ máu trời tháng chín.
Nhưng thời gian
già đi. Và mềm nhũn
Lụa quanh ghế
bành tan chảy như băng.
Em cất tiếng,
ầm ừ rồi bỗng lặng
Giấc mơ im như
tiếng vọng của chuông.
Anh tỉnh giấc.
Tựa mùa thu ảm đạm
Buổi bình minh
và gió chạy về xa
Mang trận mưa
rơm chạy ở sau xe
Và hàng dương
theo bầu trời xa thẳm.
1913
Сон
Мне снилась осень в полусвете стекол,
Друзья и ты в их шутовской гурьбе,
И, как с небес добывший крови сокол,
Спускалось сердце на руку к тебе.
Но время шло, и старилось, и глохло,
И, поволокой рамы серебря,
Заря из сада обдавала стекла
Кровавыми слезами сентября.
Но время шло и старилось. И рыхлый,
Как лед, трещал и таял кресел шелк.
Вдруг, громкая, запнулась ты и стихла,
И сон, как отзвук колокола, смолк.
Я пробудился. Был, как осень, темен
Рассвет, и ветер, удаляясь, нес,
Как за возом бегущий дождь соломин,
Гряду бегущих по небу берез.
3.CẤM CHẠM VÀO
“Cấm chạm vào đồ mới sơn” –
Linh hồn không biết giữ gìn
Và ký ức – giờ
trong vết ố
Của môi, má,
mắt, tay, chân.
Tôi có nhiều
may mắn và bất hạnh
Hơn mọi người,
vì tôi đã yêu em
Và cái ánh
sáng trắng giờ ố vàng
Với em – từng
trắng hơn phấn trắng.
Và màn sương
của tôi, xin thề nguyện
Bằng một cách
nào đó sẽ trở nên
Trắng hơn cơn
mê sảng, chao đèn
Trắng hơn cả
dải băng trên trán!
1917
Не трогать
"Не трогать, свежевыкрашен", -
Душа не береглась,
И память - в пятнах икр и щек,
И рук, и губ,
и глаз.
Я больше всех удач и бед
За то тебя
любил,
Что пожелтелый белый свет
С тобой -
белей белил.
И мгла моя, мой друг, божусь,
Он станет
как-нибудь
Белей, чем бред, чем абажур,
Чем белый
бинт на лбу!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét