Thứ Năm, 15 tháng 3, 2018

Thơ Boris Pasternak - Phần 4


20.PHÉP LẠ

Người đi từ Bethany đến Giêrusalem
Mệt rã rời vì nỗi buồn đã biết
Bụi gai đã cháy khô trên đỉnh dốc
Khói không hề bay trên mái lều gần
Trời nóng bức và lau sậy đứng yên
Sự bất động im lìm trên Biển Chết.

Với nỗi đắng cay của biển cùng tranh chấp
Người bước đi cùng với những đám mây
Trên con đường bụi tới sân của ai
Đến thành phố cùng môn đ họp mặt.

Người đắm chìm trong ý nghĩ của mình
Trên cánh đồn bốc lên mùi cây ngải
Tất cả lặng im. Mình Người đứng giữa
Còn cánh đồng nằm tê liệt mê man.
Tất cả lẫn lộn: khí nóng và bãi hoang
Những con thằn lằn, mạch nguồn, dòng suối.

Một cây vả nhô cao lên gần đấy
Cây không hề có quả, chỉ lá cành
Người hỏi cây: “Mi có ích gì chăng?
Ta vui gì khi nhìn mi đứng vậy?

Ta khát, đói mà mi thì vô sinh
Gặp phải mi khác gì đá hoa cương.
Ôi, thật đáng trách, mi loài vô dụng
Mi cứ là mi cho đến ngày tàn”.

Cơn run của lời nguyền chạy theo cây
Như tia chớp truyền theo cột thu lôi
Cây vả liền bị đốt thành tro bụi.

Thời điểm này nếu có phút tự do
Ở lá, cành, ở gốc và thân cây
Hẳn luật tự nhiên kịp thời can thiệp.
Nhưng phép lạ là phép lạ, là Chúa Trời.
Khi ta rối bời, khi ta cuống quít
Thì lập tức phép lạ hiện ra ngay.

Чудо

Он шел из Вифании в Ерусалим,
Заранее грустью предчувствий томим.

Колючий кустарник на круче был выжжен,
Над хижиной ближней не двигался дым,
Был воздух горяч, и камыш неподвижен,
И Мертвого моря покой недвижим.

И в горечи, спорившей с горечью моря,
Он шел с небольшою толпой облаков
По пыльной дороге на чье-то подворье,
Шел в город на сборище учеников.

И так углубился он в мысли свои,
Что поле в уныньи запахло полынью.
Все стихло. Один он стоял посредине,
А местность лежала пластом в забытьи.
Все перемешалось: теплынь и пустыня,
И ящерицы, и ключи, и ручьи.

Смоковница высилась невдалеке,
Совсем без плодов, только ветки да листья.
И он ей сказал: «Для какой ты корысти?
Какая мне радость в твоем столбняке?

Я жажду и алчу, а ты — пустоцвет,
И встреча с тобой безотрадней гранита.
О, как ты обидна и недаровита!
Останься такой до скончания лет».

По дереву дрожь осужденья прошла,
Как молнии искра по громоотводу.
Смоковницу испепелило до тла.

Найдись в это время минута свободы
У листьев, ветвей, и корней, и ствола,
Успели б вмешаться законы природы.
Но чудо есть чудо, и чудо есть Бог.
Когда мы в смятеньи, тогда средь разброда
Оно настигает мгновенно, врасплох.

 

21.ĐẤT

Mùa xuân ùa ra ôm lấy
Các biệt thự Mátxcơva
Bọ nhậy bay sau lưng tủ
Bò trên mũ của mùa hè
Người cất áo lông vào tủ.

Trên tầng lửng bằng gỗ
Người ta bày những chậu hoa
Cùng đinh hương và lan tử la
Và các gian phòng dễ thở
Mùi bụi từ gác xép bay ra.

Và đường phố thân tình
Với ô cửa mắt kèm nhèm
Cả hoàng hôn và đêm trắng
Không rời nhau ở bến sông.

Và có thể nghe ở hành lang
Những gì ở ngoài không gian
Biết tháng tư đang nói chuyện
Với giọt nước rất vô tình.
Nó biết hàng ngàn câu chuyện
Về đau khổ của người trần
Bình minh trên rào ló dạng
Kéo dài câu chuyện huyên thiên.

Lửa hòa trộn cùng với sự kinh hoàng
Thì cảm thấy khắp nơi đều ấm cúng
Và khắp nơi không khí không như mình
Và cũng vẫn là những cành liễu mỏng
Và cũng vẫn là những búp hoa trắng
Trên cửa sổ và trên ngã ba đường
Ngoài đường phố và cả trong công xưởng.

Thì tại sao khoảng xa khóc trong sương
Sao nấm mốc bốc lên mùi cay đắng?
Bởi thiên chức của tôi và sứ mệnh
Là làm cho những khoảng cách khỏi buồn
Để ở ngoài thành phố theo giới hạn
Mặt đất kia không buồn bã một mình.

Chính vì lẽ đó mà đầu xuân này
Tôi và bạn bè tổ chức gặp mặt
Và những tối vui là sự chia tay
Những buổi tiệc tùng là lời di chúc
Và để cái tia khổ đau bí mật
Sưởi ấm cho cơn lạnh của cuộc đời.

Земля

В московские особняки
Врывается весна нахрапом.
Выпархивает моль за шкапом
И ползает по летним шляпам,
И прячут шубы в сундуки.

По деревянным антресолям
Стоят цветочные горшки
С левкоем и желтофиолем,
И дышат комнаты привольем,
И пахнут пылью чердаки.

И улица запанибрата
С оконницей подслеповатой,
И белой ночи и закату
Не разминуться у реки.

И можно слышать в коридоре,
Что происходит на просторе,
О чем в случайном разговоре
С капелью говорит апрель.
Он знает тысячи историй
Про человеческое горе,
И по заборам стынут зори
И тянут эту канитель.

И та же смесь огя и жути
На воле и в жилом уюте,
И всюду воздух сам не свой.
И тех же верб сквозные прутья.
И тех же белых почек вздутья
И на окне, и на распутье,
На улице и в мастерской.

Зачем же плачет даль в тумане
И горько пахнет перегной?
На то ведь и мое призванье,
Чтоб не скучали расстоянья,
Чтобы за городскою гранью
Земле не тосковать одной.

Для этого весною ранней
Со мною сходятся друзья,
И наши вечера прощанья,
Пирушки наши завещанья,
Чтоб тайная струя страданья
Согрела холод бытия. 



22.NHỮNG NGÀY TỆ HẠI

Trong tuần lễ cuối cùng
Khi Người đi vào thành Giêrusalem
Dân Do Thái ra tung hô chào đón
Chạy theo sau, mang theo cả lá cành.

Nhưng tháng ngày mỗi lúc nghiệt ngã hơn
Những con tim tình yêu không chạm đến
Những hàng lông mày chau và khinh khỉnh
Và lời bạt là đây, là chỗ cuối cùng.

Và bầu trời như đè nặng xuống sân
Giống như chì, tất cả trong sức nặng
Bọn Pharisêu cố tìm ra bằng chứng
Trước mặt Người như lũ cáo lăng xăng.

Các thế lực đen tối của ngôi đền
Giao Người cho bọn lưu manh phán quyết
Và chúng nguyền rủa với bầu nhiệt huyết
Như trước đây từng ca tụng, thề nguyền.

Một đám đông ở khu đất bên cạnh
Đưa ánh mắt từ trong cổng nhìn ra
Cái kết cục họ trông ngóng đợi chờ
Vẻ sốt ruột, cứ hết lùi lại tiến.

Và tiếng rì rầm lan sang bên cạnh
Và lời đồn khắp bốn phía tỏa ra
Lần sang Ai Cập và thời ấu thơ
Chỉ được nhớ lại như là giấc mộng.

Và nhớ lại cái tảng đá trang nghiêm
Ở chốn hoang vu, và nơi dốc đá
Nơi mà Người bị Sa tăng quyến rũ
Với cái quyền bá chủ cả thế gian.

Và bữa tiệc vu quy ở Cana
Đám thực khách ngạc nhiên vì phép lạ
Trong màn mịt mờ trên biển cả
Người đi thuyền như đi trên đất kia.

Đám dân nghèo tụ tập trong lán trại
Họ cầm theo ngọn nến xuống tầng hầm
Nơi ngọn nến phụt tắt vì kinh hoàng
Khi Người vừa hồi sinh và đứng dậy…

Дурные дни

Когда на последней неделе
Входил Он в Иерусалим,
Осанны навстречу гремели,
Бежали с ветвями за Ним.

А дни все грозней и суровей,
Любовью не тронуть сердец.
Презрительно сдвинуты брови.
И вот послесловье, конец.

Свинцовою тяжестью всею
Легли на дворы небеса.
Искали улик фарисеи,
Юля перед Ним, как лиса.

И темными силами храма
Он отдан подонкам на суд,
И с пылкостью тою же самой,
Как славили прежде, клянут.

Толпа на соседнем участке
Заглядывала из ворот,
Толклись в ожиданье развязки
И тыкались взад и вперед.

И полз шепоток по соседству
И слухи со многих сторон.
И бегство в Египет и детство
Уже вспоминались как сон.

Припомнился скат величавый
В пустыне, и та крутизна,
С которой всемирной державой
Его соблазнял сатана.

И брачное пиршество в Кане,
И чуду дивящийся стол.
И море, которым в тумане
Он к лодке, как по суху, шел.

И сборище бедных в лачуге,
И спуск со свечою в подвал,
Где вдруг она гасла в испуге,
Когда воскрешенный вставал…
  

23.MAĐƠLEN I

Đêm xuống, con quỉ của con đã đây
Con trả nợ cho những gì trong quá khứ
Những ký ức của một thời đồi trụy
Sẽ đến đây, hút máu trái tim này
Ngày mà con là nô lệ của bao người
Con đã từng là một con điên ngu dại
Trú khắp đầu đường xó chợ, ở mọi nơi.

Chỉ còn lại mấy phút nữa mà thôi
Sẽ có sự lặng yên như dưới mồ tĩnh lặng
Nhưng trước khi chúng hò nhau kéo đến
Đến tận cùng con đập phá cuộc đời
Cuộc đời con, như chiếc bình ngọc trắng
Trước mặt Người.

Ôi, dù bây giờ nơi nào con đang ở
Thầy của con, niềm Cứu rỗi của con
Giá mà, khi mà đêm sẽ đến bên bàn
Thì vĩnh hằng không chờ con, không đợi
Và giống như một người du khách mới
Bị sa lưới nghề do bởi con giăng.

Xin Người giảng, thế nào là lỗi lầm
Và cái chết, địa ngục, lửa lưu huỳnh
Khi mà con đây trong mắt tất cả
Như chồi và cây, với Người gắn bó
Trong nỗi buồn không nói hết của con.

Hỡi Giêsu của con, khi con ôm
Bàn chân Người dựa vào gối của con
Thì có lẽ, con học được cách ôm
Cây xà bốn cạnh là cây thập ác
Và con ngất lịm hướng về cái xác
Sẵn sàng liệm xác của Người để chôn.

Магдалина

Чуть ночь, мой демон тут как тут,
За прошлое моя расплата.
Придут и сердце мне сосут
Воспоминания разврата,
Когда, раба мужских причуд,
Была я дурой бесноватой
И улицей был мой приют.

Осталось несколько минут,
И тишь наступит гробовая.
Но, раньше чем они пройдут,
Я жизнь свою, дойдя до края,
Как алавастровый сосуд,
Перед тобою разбиваю.

О, где бы я теперь была,
Учитель мой и мой спаситель,
Когда б ночами у стола
Меня бы вечность не ждала,
Как новый, в сети ремесла
Мной завлеченный посетитель.

Но объясни, что значит грех,
И смерть, и ад, и пламень серный,
Когда я на глазах у всех
С тобой, как с деревом побег,
Срослась в своей тоске безмерной.

Когда твои стопы, Исус,
Оперши о свои колени,
Я, может, обнимать учусь
Креста четырехгранный брус
И, чувств лишаясь, к телу рвусь,
Тебя готовя к погребенью.
  

24.MAĐƠLEN II

Trước ngày lễ mọi người đều dọn dẹp
Con tránh xa cảnh bận rộn lăng xăng
Và con tưới nước thơm từ trong bình
Vào đôi chân của Người vô cùng sạch.

Con lục lọi và không tìm thấy dép
Không thấy gì vì nước mắt đầy vơi
Trong mắt con như có một màng che
Do những lọn tóc xõa ra che lấp.

Đôi chân Người con áp vào vạt áo
Nước mắt rơi lên đó, Chúa của con
Con quấn chuỗi ngọc đeo cổ vào chân
Và tóc xõa trùm lên như áo phủ.

Con thấy rõ tương lai từng chi tiết
Tựa hồ như Người bắt chúng dừng chân
Và giống như những thầy bói Xibin**
Con bây giờ có khả năng đoán trước.

Ngày mai màn che rơi xuống trong đền
Chúng con tụ tập bên ngoài thành đám
Và đất ở dưới bàn chân rung chuyển
Có thể là vì thương hại cho con.

Đoàn áp giải sẽ đổi thay hàng ngũ
Sẽ tản về các phía bọn kỵ binh
Thập ác này sẽ hướng lên trời xanh
Như lốc xoáy trên đầu trong cơn bão.

Con phủ phục xuống đất, bên thập ác
Chết lặng người và mím miệng cắn môi
Đôi tay giang rộng để ôm nhiều người
Là đôi tay của Người trên thập ác.

Cho ai trên đời ngần ấy bao dung
Ngần ấy đớn đau và nguồn sức mạnh?
Có chăng trên đời bấy nhiêu đời sống?
Bấy nhiêu sông, núi, bấy nhiêu xóm làng?

Nhưng ba ngày như thế sẽ qua nhanh
Chúng đẩy con vào khoảng không rỗng tuếch
Và trong cái khoảng cách này khủng khiếp
Con sẽ lớn lên đến sự Phục sinh.
_______________
*Maria Mađơlen (Mai Đệ Liên) – theo kinh Phúc Âm là môn đệ trung thành của Chúa Giêsu, người có mặt trong ngày Chúa bị đóng đinh cũng như ngày chôn cất và là người đầu tiên nhìn thấy Chúa phục sinh. Mađơlen là người từ một gái giang hồ trở thành một Nữ Thánh.
**Xibin (Sibyls) – những người phụ nữ có tài tiên tri ở Hy Lạp thời cổ đại. Nổi tiếng nhất là Xibin ở Cumai, người đã xem bói cho Aineas.

Магдалина

У людей пред праздником уборка.
В стороне от этой толчеи
Обмываю миром из ведерка
Я стопы пречистые твои.

Шарю и не нахожу сандалий.
Ничего не вижу из-за слез.
На глаза мне пеленой упали
Пряди распустившихся волос.

Ноги я твои в подол уперла,
Их слезами облила, Исус,
Ниткой бус их обмотала с горла,
В волосы зарыла, как в бурнус.

Будущее вижу так подробно,
Словно ты его остановил.
Я сейчас предсказывать способна
Вещим ясновиденьем сивилл.

Завтра упадет завеса в храме,
Мы в кружок собьемся в стороне,
И земля качнется под ногами,
Может быть, из жалости ко мне.

Перестроятся ряды конвоя,
И начнется всадников разъезд.
Словно в бурю смерч, над головою
Будет к небу рваться этот крест.

Брошусь на землю у ног распятья,
Обомру и закушу уста.
Слишком многим руки для объятья
Ты раскинешь по концам креста.

Для кого на свете столько шири,
Столько муки и такая мощь?
Есть ли столько душ и жизней в мире?
Столько поселений, рек и рощ?

Но пройдут такие трое суток
И столкнут в такую пустоту,
Что за этот страшный промежуток
Я до воскресенья дорасту.
  


25.VƯỜN GHẾTSÊMANI*

Ánh sáng của những ngôi sao hờ hững
Chiếu lên chỗ ngoặt của con đường
Núi cây dầu con đường chạy vòng quanh
Phía bên dưới là Kidron thung lũng.

Một nửa đồng cỏ dường như được cắt
Tiếp theo sau đồng cỏ dải ngân hà
Và những cây ô liu đầy ánh bạc
Cố gắng theo không khí bước về xa.

Ở phía cuối khu vườn, một thuở đất
Người bỏ lại môn đệ sau bức tường
Và nói với họ: “Hồn ta bất an
Anh em ở lại để mà canh thức”.

Người từ chối, Người tránh sự đối đầu
Như là những thứ đi vay ai đấy
Từ chối quyền năng và sự nhiệm màu
Giống như người trần thế, như ta vậy.

Khoảng đêm xa bây giờ như mép cạnh
Của sự hủy diệt và cõi hư vô
Hoàn vũ mênh mông chẳng có một ai
Và chỉ khu vườn là nơi để sống.

Mắt Người nhìn vào những hố đen ngòm
Và trống rỗng, chẳng có đầu có cuối
Để cho chiếc chén chết này qua khỏi
Đẫm mồ hôi Người cầu nguyện Cha mình.

Lời cầu làm dịu vẻ mệt rã rời
Người bước ra khỏi bờ rào. Trên đất
Môn đệ của Người ngủ gà ngủ gật
Trên cỏ ven đường họ ngủ khắp nơi.

Người thức họ: “Chúa Trời xui anh em
Sống trong ngày của ta mà la liệt
Thôi đủ rồi, giờ của người đã hết
Người trao thân vào tay bọn lỗi lầm”.

Người vừa nói xong, chẳng biết từ đâu
Một đám đông nô lệ mang gậy gộc
Cùng gươm giáo, Giuđa đi phía trước
Với nụ hôn phản bội ở trên môi.

Phêrơ lấy gươm đánh bọn bất nhân
Chém đứt tai một tên trong số nọ
Nhưng nghe tiếng: “Hãy cho gươm vào vỏ
Ai cầm gươm rồi sẽ chết vì gươm**.

Anh nghĩ Cha Thầy không giúp Thầy chăng?
Người sẽ cho mười hai đạo binh thần
Một sợi tóc trên đầu không dám đụng
Và lũ kia chỉ có biến mất tăm.

Nhưng quyển sách đời giờ đã sang trang
Trang này quí hơn những miền thánh địa
Và những gì trong sách từng viết đó
Giờ phải trở thành sự thực. Amen!

Anh thấy đấy, dòng đời như châm ngôn
Và có thể đang giữa đường bốc cháy
Vì sự vĩ đại rất kinh hoàng ấy
Trong khổ đau Thầy xuống mộ vui lòng.

Thầy xuống mộ, ngày thứ ba đứng lên
Như những chiếc bè bơi trên sông nhỏ
Như đoàn thuyền đến trong ngày phán xử
Hàng trăm năm bơi ra khỏi bóng đêm”.
______________
* Đây là khu vườn mà Giêsu đến cầu nguyện và bị bắt tại đây do Giuđa phản bội (xem Phúc Âm Mathiơ, 26: 36-56; Mác, 14: 32-52. Luca, 22: 39-49). 
**Dòng này chúng tôi dịch đúng theo lời Giêsu trong Kinh Thánh hơn là theo thơ Pasternak.

Гефсиманский сад

Мерцаньем звезд далеких безразлично
Был поворот дороги озарен.
Дорога шла вокруг горы Масличной,
Внизу под нею протекал Кедрон.

Лужайка обрывалась с половины.
За нею начинался Млечный путь.
Седые серебристые маслины
Пытались вдаль по воздуху шагнуть.

В конце был чей-то сад, надел земельный.
Учеников оставив за стеной,
Он им сказал: “Душа скорбит смертельно,
Побудьте здесь и бодрствуйте со мной”.

Он отказался без противоборства,
Как от вещей, полученных взаймы,
От всемогущества и чудотворства,
И был теперь, как смертные, как мы.

Ночная даль теперь казалась краем
Уничтоженья и небытия.
Простор вселенной был необитаем,
И только сад был местом для житья.

И, глядя в эти черные провалы,
Пустые, без начала и конца,
Чтоб эта чаша смерти миновала,
В поту кровавом Он молил Отца.

Смягчив молитвой смертную истому,
Он вышел за ограду. На земле
Ученики, осиленные дремой,
Валялись в придорожном ковыле.

Он разбудил их: “Вас Господь сподобил
Жить в дни мои, вы ж разлеглись, как пласт.
Час Сына Человеческого пробил.
Он в руки грешников себя предаст”.

И лишь сказал, неведомо откуда
Толпа рабов и скопище бродяг,
Огни, мечи и впереди — Иуда
С предательским лобзаньем на устах.

Петр дал мечом отпор головорезам
И ухо одному из них отсек.
Но слышит: “Спор нельзя решать железом,
Вложи свой меч на место, человек.

Неужто тьмы крылатых легионов
Отец не снарядил бы мне сюда?
И, волоска тогда на мне не тронув,
Враги рассеялись бы без следа.

Но книга жизни подошла к странице,
Которая дороже всех святынь.
Сейчас должно написанное сбыться,
Пускай же сбудется оно. Аминь.

Ты видишь, ход веков подобен притче
И может загореться на ходу.
Во имя страшного ее величья
Я в добровольных муках в гроб сойду.

Я в гроб сойду и в третий день восстану,
И, как сплавляют по реке плоты,
Ко мне на суд, как баржи каравана,
Столетья поплывут из темноты”.



Những bài thơ khác:
(Phần Bác sĩ Zhivago xếp theo trật tự của tác phẩm, phần sau xếp theo trình tự thời gian sáng tác)


1.NGÀY HÔM NAY TẤT CẢ MẶC BÀNH TÔ

Ngày hôm nay tất cả mặc bành tô
Những mầm cây khoác trên mình giọt nước
Nhưng tất cả không một ai nhận ra
Rằng anh uống say tiết trời vẩn đục.

Ánh bạc ngời những chiếc lá mâm xôi
Mặt sau lá hướng lên trời, ngửa mặt
Ngày hôm nay em buồn như mặt trời
Còn mặt trời như em – người phương bắc.

Ngày hôm nay tất cả mặc bành tô
Nhưng với ta không có gì bất lợi
Không có gì thay nổi cho hai ta
Thứ nước uống có màu hơi sẫm tối.
1913

Все наденут сегодня пальто

Все наденут сегодня пальто
И заденут за поросли капель,
Но из них не заметит никто,
Что опять я ненастьями запил.

Засребрятся малины листы,
Запрокинувшись кверху изнанкой,
Солнце грустно сегодня, как ты, -
Солнце нынче, как ты, северянка.

Все наденут сегодня пальто,
Но и мы проживем без убытка.
Нынче нам не заменит ничто
Затуманившегося напитка.


2.GIẤC MƠ

Anh mơ thấy em trong kính hoàng hôn
Thấy bạn bè và em đang huyên náo
Trái tim anh như đại bàng say máu
Từ trời cao sà xuống giữa tay em.

Nhưng thời gian già đi và nghễnh ngãng
Để ánh hoàng hôn từ phía sau vườn
Cho khung cửa, đem ánh bạc nhuốm lên
Và cho kính, lệ máu trời tháng chín.

Nhưng thời gian già đi. Và mềm nhũn
Lụa quanh ghế bành tan chảy như băng.
Em cất tiếng, ầm ừ rồi bỗng lặng
Giấc mơ im như tiếng vọng của chuông.

Anh tỉnh giấc. Tựa mùa thu ảm đạm
Buổi bình minh và gió chạy về xa
Mang trận mưa rơm chạy ở sau xe
Và hàng dương theo bầu trời xa thẳm.
1913

Сон

Мне снилась осень в полусвете стекол,
Друзья и ты в их шутовской гурьбе,
И, как с небес добывший крови сокол,
Спускалось сердце на руку к тебе.

Но время шло, и старилось, и глохло,
И, поволокой рамы серебря,
Заря из сада обдавала стекла
Кровавыми слезами сентября.

Но время шло и старилось. И рыхлый,
Как лед, трещал и таял кресел шелк.
Вдруг, громкая, запнулась ты и стихла,
И сон, как отзвук колокола, смолк.

Я пробудился. Был, как осень, темен
Рассвет, и ветер, удаляясь, нес,
Как за возом бегущий дождь соломин,
Гряду бегущих по небу берез.
  

3.CẤM CHẠM VÀO

Cấm chạm vào đ mới sơn” –
Linh hồn không biết giữ gìn
Và ký ức – giờ trong vết ố
Của môi, má, mắt, tay, chân.

Tôi có nhiều may mắn và bất hạnh
Hơn mọi người, vì tôi đã yêu em
Và cái ánh sáng trắng giờ ố vàng
Với em – từng trắng hơn phấn trắng.

Và màn sương của tôi, xin thề nguyện
Bằng một cách nào đó sẽ trở nên
Trắng hơn cơn mê sảng, chao đèn
Trắng hơn cả dải băng trên trán!
1917

Не трогать

"Не трогать, свежевыкрашен", -
      Душа не береглась,
И память - в пятнах икр и щек,
      И рук, и губ, и глаз.

Я больше всех удач и бед
      За то тебя любил,
Что пожелтелый белый свет
      С тобой - белей белил.

И мгла моя, мой друг, божусь,
      Он станет как-нибудь
Белей, чем бред, чем абажур,
      Чем белый бинт на лбу!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét