Thứ Năm, 15 tháng 3, 2018

Thơ Boris Pasternak - Phần 2


8.GIÓ

Anh đã chết rồi, em vẫn sống
Còn gió than phiền, khóc nỉ non
Gió lay biệt thự, lay rừng rậm.
Không gì riêng lẻ mỗi cây thông
Mà gió lung lay cả cánh rừng
Với tất cả tận cùng xa thẳm
Như lay những chiếc thuyền buồm
Trong vũng tàu nước lặng.
Đấy không phải là tại vì ngạo mạn
Hay tại vì giận dữ cuồng điên
Mà để, trong nỗi buồn vô hạn
Tìm những lời gió hát ru em.

Ветер

Я кончился, а ты жива.
И ветер, жалуясь и плача,
Раскачивает лес и дачу.
Не каждую сосну отдельно,
А полностью все дерева
Со всею далью беспредельной,
Как парусников кузова
На глади бухты корабельной.
И это не из удальства
Или из ярости бесцельной,
А чтоб в тоске найти слова
Тебе для песни колыбельной.


9.CÂY HOA BIA

Dưới cây liễu, bụi trường xuân vây lấy
Buổi xấu trời ta ngồi tránh cơn giông
Lên những bờ vai ta khoác áo choàng
Vòng tay anh quanh người em quấn lại.

Anh đã nhầm. Bởi vì rằng cây ấy
Là cây hoa bia, đâu phải trường xuân
Thôi thì tốt nhất ta lấy áo choàng
Theo bề rộng chỗ mình nằm sẽ trải.

Хмель

Под ракитой, обвитой плющом,
От ненастья мы ищем защиты.
Наши плечи покрыты плащом,
Вкруг тебя мои руки обвиты.

Я ошибся. Кусты этих чащ
Не плющом перевиты, а хмелем.
Ну, так лучше давай этот плащ
В ширину под собою расстелим.


10.TRỜI ẤM ĐẦU THU

Lá của phúc bồn tử thô và ráp
Trong ngôi nhà có tiếng kính cười vang
Người ta thái, băm thịt rồi đem ướp
Và cho thêm gia vị vào nước tương.

Khu rừng giống như người thích giễu cợt
Ném tiếng ồn lên vách đá cheo leo
Nơi phi tử bị mặt trời thiêu đốt
Giống như dùng lửa đám cháy đ thiêu.

nơi đây con đường xuôi hẻm núi
nơi này gốc cây cũ héo khô
Và biết bao mảnh vụn của mùa thu
Tất cả cho vào khe này gom lại.

Ta thấy rằng vũ trụ này giản đơn
Hơn những người khôn ngoan thường suy nghĩ
Rằng khu rừng cũng có khi buồn bã
Mọi thứ đều đi về điểm cuối cùng.

Rằng chớp mắt kinh ngạc là vô nghĩa
Khi trước mặt anh tất cả thành tro
Và bồ hóng màu trắng của mùa thu
Thành mạng nhện giăng đầy lên cửa sổ.

Một lối mòn cắt bờ giậu đi ra
Rồi xuyên vào rừng bạch dương mất hút
Trong nhà tiếng cười và cảnh bếp núc
Thì cũng tiếng cười, cảnh ấy đằng xa.

Бабье лето

Лист смородины груб и матерчат.
В доме хохот и стекла звенят,
В нем шинкуют, и квасят, и перчат,
И гвоздики кладут в маринад.

Лес забрасывает, как насмешник,
Этот шум на обрывистый склон,
Где сгоревший на солнце орешник
Словно жаром костра опален.

Здесь дорога спускается в балку,
Здесь и высохших старых коряг,
И лоскутницы осени жалко,
Все сметающей в этот овраг.

И того, что вселенная проще,
Чем иной полагает хитрец,
Что как в воду опущена роща,
Что приходит всему свой конец.

Что глазами бессмысленно хлопать,
Когда все пред тобой сожжено
И осенняя белая копоть
Паутиною тянет в окно.

Ход из сада в заборе проломан
И теряется в березняке.
В доме смех и хозяйственный гомон,
Тот же гомон и смех вдалеке.


11.ĐÁM CƯỚI

Đi cắt ngang mép sân
Khách ra đường hát múa
Chơi đàn phong cầm nhỏ
Cho đến tận bình minh.

Phía sau cửa bọc da
Trong ngôi nhà chú rể
Tiếng chuyện trò giảm nhẹ
Từ một đến bảy giờ.

Bình minh, đó là khi
Giá được ngủ và ngủ
Tiếng phong cầm lại rộ
Đoàn rước dâu đã về.

Đàn Ăc-coóc vang lên
Đàn Baian cũng thế
Lấp lánh những dây chuyền
Tiếng vỗ tay ầm ĩ.

Tiếng hát và tiếng đàn
Cứ vang lên như thế
Xộc thẳng vào tận giường
Của những người đang ngủ.

Một nàng như tuyết trắng
Giữa tiếng huýt, tiếng ồn
Bơi như một con công
Thân hình nàng uyển chuyển.

Mái tóc nàng dập dờn
Uốn cong bàn tay phải
Nàng nhảy múa trên sân
Như là con công mái.

Bỗng tiếng ồn náo nức
Tiếng dồn dập bước chân
Như rơi vào địa ngục
Như chìm vào nước sông.

Sân tỉnh giấc rộn ràng
Tiếng vọng của việc làm
Đan xen vào câu chuyện
Và tiếng cười giòn tan.

Vào trời xanh mênh mông
Như cơn lốc màu xám
Bầy chim câu cất cánh
Rời khỏi các chuồng chim.

Như người vừa tỉnh ngủ
Dấu tích cuộc hôn nhân
Lời chúc đã nhiều năm
Vẫn còn theo đuổi họ.

Cuộc đời chỉ khoảnh khắc
Chỉ là sự hòa tan
Ta vào bao người khác
Như quà tặng nhân quần.

Chỉ đám cưới, cửa sâu
Bay lên từ dưới đất
Chỉ giấc mơ, bài hát
Chỉ màu xám chim câu.

Свадьба

Пересекши край двора,
Гости на гулянку
В дом невесты до утра
Перешли с тальянкой.

За хозяйскими дверьми
В войлочной обивке
Стихли с часу до семи
Болтовни обрывки.

А зарею, в самый сон,
Только спать и спать бы,
Вновь запел аккордеон,
Уходя со свадьбы.

И рассыпал гармонист
Снова на баяне
Плеск ладоней, блеск монист,
Шум и гам гулянья.

И опять, опять, опять
Говорок частушки
Прямо к спящим на кровать
Ворвался с пирушки.

А одна, как снег бела,
В шуме, свисте, гаме
Снова павой поплыла,
Поводя боками.

Помавая головой
И рукою правой,
В плясовой по мостовой,
Павой, павой, павой.

Вдруг задор и шум игры,
Топот хоровода,
Провалясь в тартарары,
Канули, как в воду.

Просыпался шумный двор.
Деловое эхо
Вмешивалось в разговор
И раскаты смеха.

В необъятность неба, ввысь
Bихрем сизых пятен
Стаей голуби неслись,
Снявшись с голубятен.

Точно их за свадьбой вслед,
Спохватясь спросонья,
С пожеланьем многих лет
Выслали в погоню.

Жизнь ведь тоже только миг,
Только растворенье
Нас самих во всех других
Как бы им в даренье.

Только свадьба, вглубь окон
Рвущаяся снизу,
Только песня, только сон,
Только голубь сизый.


video

12.MÙA THU

Anh đã chia tay với những người nhà
Tất cả người thân từ lâu không hợp
Với một nỗi cô đơn như mọi khi
Trong thiên nhiên và trong lòng dâng ngập.

Giờ ngồi đây cùng em trong lều gác
Giữa hoang vu, trong rừng vắng không người.
Những lối mòn, như lời trong bài hát
Cây cỏ chỉ còn một nửa mà thôi.

Và giờ đây với một vẻ u sầu
Nhìn vào hai ta những bức tường gỗ.
Anh và em chẳng có gì cách trở
Hai đứa chân thành sẽ chết cùng nhau.

Ta ngồi canh một, đứng dậy canh ba
Em với bức thêu còn anh với sách
Đến gần sáng sẽ không hề nhận ra
Ta thôi hôn nhau lúc nào không biết.

Hãy ngang tàng và lộng lẫy xa hoa
Rắc đầy lên hỡi lá rừng xào xạc
Chén khổ tận cay đắng ngày hôm qua
Nỗi buồn hôm nay tràn trề hãy rót.

Nỗi lưu luyến, niềm say mê, vẻ đẹp!
Tan biến vào trong ầm ĩ mùa thu!
Em hãy vùi trong mùa thu xào xạc!
Và sẽ ngất ngây hay sẽ điên rồ!

Và em hãy vứt quần áo mình ra
Như rừng nhỏ trong mùa thu trút lá
Khi vào vòng tay của anh em ngã
Trong áo choàng với nét vẽ nhung tơ.

Em là hạnh phúc của bước thương đau
Khi cuộc sống chán chường hơn bệnh tật
Còn can đảm là ngọn nguồn cái đẹp
Chính điều này xích ta lại gần nhau.


Осень

Я дал разъехаться домашним,
Все близкие давно в разброде,
И одиночеством всегдашним
Полно все в сердце и природе.

И вот я здесь с тобой в сторожке.
В лесу безлюдно и пустынно.
Как в песне, стежки и дорожки
Позаросли наполовину.

Теперь на нас одних с печалью
Глядят бревенчатые стены.
Мы брать преград не обещали,
Мы будем гибнуть откровенно.

Мы сядем в час и встанем в третьем,
Я с книгою, ты с вышиваньем,
И на рассвете не заметим,
Как целоваться перестанем.

Еще пышней и бесшабашней
Шумите, осыпайтесь, листья,
И чашу горечи вчерашней
Сегодняшней тоской превысьте.

Привязанность, влеченье, прелесть!
Рассемся в сентябрьском шуме!
Заройся вся в осенний шелест!
Замри или ополоумей!

Ты так же сбрасываешь платье,
Как роща сбрасывает листья,
Когда ты попадешь в объятье
В халате с шелковою кистью.

Ты благо гибельного шага,
Когда житье тошней недуга,
А корень красоты отвага,
И это тянет нас друг к другу.


13.TRUYỆN CỔ TÍCH

Chuyện từ thuở hồng hoang
xứ sở lạ thường
Có một chàng kỵ sĩ
Phóng ngựa trên thảo nguyên.

Chàng vội ra chiến trường
Trong đám bụi thảo nguyên
Rừng tối phía trước
Xa xa đã dựng thành.

Con tim đập dồn dập
Linh tính như bảo chàng:
Hãy coi chừng nguồn nước
Và giữ chặt dây cương.

Nhưng mà chàng chẳng nghe
Cứ thúc ngựa phóng đi
Không một chút lo sợ
Phóng lên ngọn đồi kia.

Rồi từ ngọn đồi con
Chàng phóng xuống thung lũng
Vượt qua bãi đất trống
Chàng vượt qua núi non.

Rồi qua một khe nhỏ
Chàng phóng theo đường rừng
Nhìn thấy dấu vết của
Thú hoang và nước nguồn.

Không đ ý những gì
Mà linh cảm dặn dò
Chàng cho ngựa xuống dốc
Uống nước bên suối kia.

Bên bờ suối có hang
Trước hangchỗ nước cạn
Dường như được soi sáng
Bằng ngọn lửa lưu huỳnh.

Trong làn khói đ bầm
Che khuất hết tầm nhìn
Từ nơi xa tít tắp
Tiếng gọi của rừng thông.

Chàng cảm thấy rùng mình
Cho ngựa theo khe núi
Và giục giã bước chân
Ngựa về nơi tiếng gọi.

Và khi chàng nhìn thấy
Thì ngọn giáo sẵn sàng
Cái đầu của con rồng
Cái đuôi và bộ vảy.

Miệng con rồng phun lửa
Rực sáng cả một vùng
Con rồng quấn ba vòng
Quanh lưng một cô gái.

Thân của con vật ấy
Như cái vòng roi da
Và cổ nó vươn tới
Vai của cô gái kia.

Xứ này có tập tục
Là bắt một giai nhân
Rồi sau đó đem nộp
Cho quái vật trong rừng.

Dân chúng trong vùng
Vẫn thường dùng vật cống
Đ mua sự yên ổn
Cho những mái nhà tranh.

Con rồng quấn tay nàng
Và quấn ngang vòng cổ
Nó làm cho đau khổ
Hành hạ vật hiến sinh.

Kỵ sĩ ngước mắt nhìn
Trời xanh và cầu nguyện
Ngọn giáo cho trận đánh
Trong tay đã sẵn sàng.

Những bờ mi khép lại
Trời cao. Những đám mây
Nước. Bãi cạn. Sông dài
Tháng năm và thế kỷ.

Mũ của chàng đã vỡ
Và chàng đã bị thương.
Nhưng con ngựa chung thủy
Dùng chân giẫm con rồng.

Con ngựa và xác rồng
Bên cạnh nhau, trên cát
Chàng kỵ sĩ bị ngất
Cô gái cũng bàng hoàng.

Bầu trời trưa sáng tỏ
Êm ả một màu xanh
Nàng là ai? Quận chúa
Gái thường dân? Nữ hoàng?

Hoặc vì quá hạnh phúc
Nước mắt chảy hai hàng
Hoặc tâm hồn tràn ngập
Mơ mộng và miên man.

Hoặc khi chàng khỏe lại
Hoặc mạch máu đứng yên
Vì máu nhiều đã chảy
Mà sức lực không còn.

Nhưng tim đập thình thình
Cả hai người đều vậy
Vừa cố gắng tỉnh dậy
Lại rơi vào mê man.

Những bờ mi khép lại
Trời cao. Những đám mây
Nước. Bãi cạn. Sông dài
Tháng năm và thế kỷ.


Сказка

Встарь, во время оно,
В сказочном краю
Пробирался конный
Степью по репью.

Он спешил на сечу,
А в степной пыли
Темный лес навстречу
Вырастал вдали.

Ныло ретивое,
На сердце скребло:
Бойся водопоя,
Подтяни седло.

Не послушал конный
И во весь опор
Залетел с разгону
На лесной бугор.

Повернул с кургана,
Въехал в суходол,
Миновал поляну,
Гору перешел.

И забрел в ложбину
И лесной тропой
Вышел на звериный
След и водопой.

И глухой к призыву,
И не вняв чутью,
Свел коня с обрыва
Попоить к ручью.

У ручья пещера,
Пред пещерой - брод.
Как бы пламя серы
Озаряло вход.

И в дыму багровом,
Застилавшем взор,
Отдаленным зовом
Огласился бор.

И тогда оврагом,
Вздрогнув, напрямик
Тронул конный шагом
На призывный крик.

И увидел конный,
И приник к копью,
Голову дракона,
Хвост и чешую.

Пламенем из зева
Рассевал он свет,
В три кольца вкруг девы
Обмотав хребет.

Туловище змея,
Как концом бича,
Поводило шеей
У ее плеча.

Той страны обычай
Пленницу-красу
Отдавал в добычу
Чудищу в лесу.

Края населенье
Хижины свои
Выкупало пеней
Этой от змеи.

Змей обвил ей руку
И оплел гортань,
Получив на муку
В жертву эту дань.

Посмотрел с мольбою
Всадник в высь небес
И копье для боя
Взял наперевес.

Сомкнутые веки.
Выси. Облака.
Воды. Броды. Реки.
Годы и века.

Конный в шлеме сбитом,
Сшибленный в бою.
Верный конь, копытом
Топчущий змею.

Конь и труп дракона
Рядом на песке.
В обмороке конный,
Дева в столбняке.

Светел свод полдневный,
Синева нежна.
Кто она? Царевна?
Дочь земли? Княжна?

То в избытке счастья
Слезы в три ручья,
То душа во власти
Сна и забытья.

То возврат здоровья,
То недвижность жил
От потери крови
И упадка сил.

Но сердца их бьются.
То она, то он
Силятся очнуться
И впадают в сон.

Сомкнутые веки.
Выси. Облака.
Воды. Броды. Реки.
Годы и века.



14.THÁNG TÁM

Như đã hứa, không một chút dối gian
Ông mặt trời thức dậy từ sáng sớm
Chiếu ánh sáng thành dải, màu vàng rộm
Suốt từ rèm cửa xuống tận đi văng.

Ông mặt trời đem ánh sáng màu vàng
Rải khắp xóm và khu rừng bên cạnh
Và trên gối, trên giường tôi lênh láng
Và sau giá sách, lên cả bức tường.

Theo từng chi tiết tôi nhớ lại rằng
Tại vì sao mà gối kia bị ướt.
Tôi mơ thấy rằng trong ngày tiễn biệt
Bạn bè tôi đi rảo bước trong rừng.

Đi thành đôi, riêng lẻ, cả đám đông
Và bỗng đột nhiên có ai đấy nhớ
Ngày mồng sáu tháng tám, theo lịch cũ
Ngày Giê-su trước môn đ biến hình*.

Ánh sáng không có lửa, rất bình thường
Xuất phát từ núi Tabor hôm đó
Và mùa thu, như điềm lành, sáng tỏ
Thu hút về đây bao ánh mắt nhìn.

Các bạn tôi đi xuyên qua khu rừng
Những cây trăn trần truồng và run rẩy
Vào khu rừng màu đ trong nghĩa địa
Đang cháy lên như chiếc bánh gừng in.

Cùng những đỉnh cao yên lặng của rừng
Bầu trời ghé lại vô cùng trang trọng
Và bằng giọng của những con gà trống
Khoảng xa xôi lên tiếng thật rõ ràng.

Trong rừng này, giống như người đạc điền
Thần chết đứng giữa nghĩa trang cay nghiệt
Nhìn vào gương mặt của tôi đã chết
Để đào cho tôi cái hố vừa thân.

Và tất cả đều như cảm thấy rằng
Có một giọng nói của ai tĩnh lặng.
Đấy là giọng của tôi khi còn sống
Từng vang lên, khi còn ở trần gian.

“Thôi ta chào nhé, màu trời thiên thanh
Và màu vàng của ngày lễ biến hình
Vẻ âu yếm đã làm ta nhẹ bớt
Nỗi đắng cay trong giờ phút cực hình.

Thôi chào nhé, những năm tháng hỗn mang
Thôi nhé, bỏ qua vực thẳm nhục hình
Hỡi người phụ nữ đã từng thách thức!
Ta – sẽ là bãi chiến trận của em.

Thôi ta chào nhé, đôi cánh chim bằng
Của những chuyến bay bền bỉ kiên gan
Và hình ảnh thế giới trong từ ngữ
Và sáng tạo, và màu nhiệm Chúa ban”.
_____________
* Преображение Господне (hoặc Второй Спас) – tức Giêsu biến hình, là chi tiết được tường thuật trong Kinh Phúc Âm (Ma-thi-ơ, 17:1-8; Mác, 09:02-8; Luca, 9:28-36), trở thành một ngày lễ quan trọng của Thiên Chúa giáo.

Август

Как обещало, не обманывая,
Проникло солнце утром рано
Косою полосой шафрановою
От занавеси до дивана.

Оно покрыло жаркой охрою
Соседний лес, дома поселка,
Мою постель, подушку мокрую,
И край стены за книжной полкой.

Я вспомнил, по какому поводу
Слегка увлажнена подушка.
Мне снилось, что ко мне на проводы
Шли по лесу вы друг за дружкой.

Вы шли толпою, врозь и парами,
Вдруг кто-то вспомнил, что сегодня
Шестое августа по старому,
Преображение Господне.

Обыкновенно свет без пламени
Исходит в этот день с Фавора,
И осень, ясная, как знаменье,
К себе приковывает взоры.

И вы прошли сквозь мелкий, нищенский,
Нагой, трепещущий ольшаник
В имбирно-красный лес кладбищенский,
Горевший, как печатный пряник.

С притихшими его вершинами
Соседствовало небо важно,
И голосами петушиными
Перекликалась даль протяжно.

В лесу казенной землемершею
Стояла смерть среди погоста,
Смотря в лицо мое умершее,
Чтоб вырыть яму мне по росту.

Был всеми ощутим физически
Спокойный голос чей-то рядом.
То прежний голос мой провидческий
Звучал, не тронутый распадом:

«Прощай, лазурь преображенская
И золото второго Спаса
Смягчи последней лаской женскою
Мне горечь рокового часа.

Прощайте, годы безвременщины,
Простимся, бездне унижений
Бросающая вызов женщина!
Я ≈ поле твоего сражения.

Прощай, размах крыла расправленный,
Полета вольное упорство,
И образ мира, в слове явленный,
И творчество, и чудотворство».


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét